1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGUYỄN TẤT THÀNH KHOA NHÃN QUANG

Thời sự NHÃN KHOA

Ophthalmology NEWS

SỐ 13 - 2015 Lưu hành nội bộ Công Ty Santen Tp Hồ Chí Minh Santen hân hạnh tài trợ

MEDIC OPTIC CENTER 1

2

TsBs Dương Diệu- Khoa Y ĐH Nguyễn tất Thành và Đoàn khám từ thiện cho 600 BN tại xã Sông Ray huyện Cẩm Mỹ- Đồng Nai

Santen hân hạnh tài trợ

2

3

THỜI SỰ NHÃN KHOA SỐ 13/8-2015 CHỦ BIÊN Ts. Bs. Dương Diệu Ts.Bs Nguyễn Cường Nam

BAN BIÊN TẬP & CỘNG TÁC VIÊN

Ts.Bs. Nguyễn Cường Nam Ts. Bs. Dương Diệu Bs Ngô Văn Phượng ThSBs. Nguyễn Phú Thiện Bs. Nguyễn Xuân Viên Ts. Bs. Võ Hoàng Lan KTV. Nguyễn Văn Toàn….

MỤC LỤC NHÃN KHOA Tổng quan: Viêm mủ nội nhãn Nguyen Cuong Nam Bell’Paralysis Duong Dieu Bệnh án: Bệnh nhân nam bị mất thị lực đột ngột Nguyen Cuong Nam

2 16

20

THƯ KÝ

KHÚC XẠ Ds. Dương Kim Lộc ĐD. Đoàn Minh Sang KTV. Đỗ Nguyễn Kim Khôi

Email thư từ, bài viết:

Tổng quan: Cận thị-cập nhật Duong Dieu Kính phân cực và nguyên lý hoạt động Duong Dieu

23 27

[email protected] [email protected]

Liên hệ: Khoa Nhãn Quang trường Đại học Nguyễn Tất Thành ĐT: 08. 39408470 www.nhanquang.ntt.edu.vn

Santen hân hạnh tài trợ

TỔNG QUÁT Điểm báo Nguyen Cuong Nam Hội nghị APAO-2015 Quảng Châu - Trung Quốc Nguyen Cuong Nam Tin tức sinh hoạt Nguyen Cuong Nam Bìa 1 : Hình ảnh Bell’Paralysis Duong Dieu Hoạt động từ thiện - Khoa Y đại học Nguyễn Tất Thành

29 31 36 Bìa 1 Bìa 2

3

4

Viêm mủ nội nhãn vẫn là 1 đề tài sẽ còn phải bàn luận nhiều vì hiện nay FDA chưa công nhận 1 phương pháp phòng ngừa nào hữu hiệu nhất vì không có 1 mẫu nghiên cứu đúng tiêu chuẩn. Hiện nay việc chích kháng sinh trong tiền phòng được coi là phương pháp ngăn ngừa có hiệu quả nhất. 3 loại kháng sinh để chích vào tiền phòng chính là: vancomycin, cefuroxime, moxifloxacin. Cefuroxime thông dụng ở Châu Âu còn vancomycin và moxifloxacin thông dụng ở Châu Mỹ, tuy nhiên ở Châu Á moxifloxacin được thông dụng nhất vì thuốc tương đối rất hữu hiệu và dễ mua. Theo kinh nghiệm của bản thân chúng tôi trong các chuyến mổ đục thủy tinh thể dịch vụ nhất là từ thiện khi dùng moxifloxacin (vigamox) chích vào trong tiền phòng thì tỷ lệ bị viêm mủ nội nhãn gần như không thấy. Bác sĩ Nguyễn Cường Nam

NHỮNG KHUYNH HƯỚNG SỬ DỤNG KHÁNG SINH CHÍCH TRONG TIỀN PHÒNG Tác giả: Michelle Dalton – phóng viên báo Eyeworld Báo eyeworld tháng 3/2015 trang 16 I. Sự khác biệt giữa các phẫu thuật viên Hoa Kỳ và châu âu Những năm sau nghiên cứu về viêm mủ sinh nào trừ phẫu thuật viên đã thường dùng nội nhãn của ESCRS đã được công bố thì kháng sinh tiêm tiền phòng. phẫu thuật viên mổ đục thủy tinh thể có nên - Theo bác sĩ Nick Mamalis, giáo sư chích kháng sinh tiền phòng để ngừa viêm đại học USA thì 1 số ít bác sĩ ngoài Hoa Kỳ mủ nội nhãn không. Loại nào là tốt nhất, khi không có kết luận cụ thể.Trong nghiên cứu nào sử dụng kháng sinh nhỏ và thời gian sử ESCRS ở Châu Âu các nhà khảo cứu đã dụng kháng sinh sau mổ là bao lâu. ASCRS chích cefuroxime vào trong tiền phòng ở thời Hoa Kỳ đã đặt câu hỏi cho các hội viên về điểm nghiên cứu vì nhóm fluoroquinolone dùng kháng sinh để ngăn ngừa viêm mủ nội thế hệ 4 chưa bán ngoài thị trường. Nói nhãn. Eyeworld đã hỏi 2 thành viên của hội chung nguy cơ cho viêm mủ nội nhãn khá đồng bàn luận về khuynh hướng; gợi ý cho thấp 1:15.000. phẫu thuật viên và bệnh nhân; những gì gây Bác sĩ Braga Melle cho biết không trở ngại cho phòng ngừa viêm mủ nội nhãn: chứng cớ chích kháng sinh vào tiền phòng - Bác sĩ Rosa Brega Mele, giáo sư đại làm giảm viêm mủ nội nhãn ở bệnh nhân của học Toronto, không dùng bất cứ loại kháng chúng tôi.

Santen hân hạnh tài trợ

4

5

Một vài phẫu thuật viên khác rất cẩn thận nghĩ rằng chích chất lạ vào trong mắt có thể gây vấn đề khác như hội chứng nhiễm độc tiền phòng TASS. Nghiên cứu ở Châu Âu và Mỹ cho thấy chích kháng sinh tiền phòng làm giảm viêm mủ nội nhãn. Vậy tại sao 1 số phẫu thuật

viên không sử dụng kháng sinh chích tiền phòng. Bác sĩ Mamalis cho rằng ở Mỹ không có thuốc kháng sinh chích tiền phòng bán sẵn và chỉ cần kỷ thuật vô trùng cho tốt và nhỏ fluoroquinolone thế hệ 4 đã làm giảm nguy cơ viêm mủ nội nhãn.

II. Những lựa chọn phòng tránh viêm mủ nội nhãn khác Đối với các phẫu thuật viên dùng kháng sinh nhỏ hoặc chích có bán ở bên ngoài thị trường như ở Hoa Kỳ đa số dùng moxiflaxacin và gatifloxacin để nhỏ xung quanh lúc phẫu thuật. Các loại fluoroquinolone thế hệ 3 thì đã bị lờn thuốc, đặc biệt đối với khuẩn staphylocok. Do đó,

III. Các lựa chọn điều trị khác nhau Mỹ và Canada chưa chấp nhận việc chích kháng sinh vào tiền phòng. Ở Canada hầu hết các phẫu thuật viên dùng 1 loại kháng sinh nhỏ 1 ngày trước phẫu thuật hay trong ngày phẫu thuật nhưng không nhỏ trước 3 ngày. Việc bảo hiểm cũng giữ vai trò trong việc lựa chọn kháng sinh, như việc dùng fluoroquinolone thế hệ 4 chưa được bảo hiểm trả do đó các phẫu thuật viên phải lựa chọn 1 loại thuốc khác như fluoroquinolone thế hệ củ. Khi thuốc kháng sinh không được dùng hậu phẫu ở 1 số các phẫu thuật viên thì có thể là phẫu thuật viên đã chích vào trong tiền phòng hay đã nhỏ ở kỳ cuối của phẫu thuật. Theo bác sĩ Braga Melle thì có thể phẫu thuật viên đã nhỏ kháng sinh lúc cuối phẫu thuật hay đã chích kháng sinh vào tiền phòng. Cũng có thể các bác sĩ đã che mắt bệnh nhân và bỏ miếng che 1 ngày sau phẫu

Santen hân hạnh tài trợ

khuyến khích phẫu thuật viên nên dùng thuốc thế hệ 4 ít lờn thuốc hơn. Về vấn đề chích kháng sinh trong tiền phòng thì chưa có các nghiên cứu rõ rằng. Tuy nhiên, moxiflaxacin hay vigamox được dùng nhiều chất. Theo bác sĩ Mamalis thì không nên pha vancomyxin vào trong dung dịch truyền mà phải chích trực tiếp.

thuật và sau đó mới bắt đầu cho nhỏ. Bản thân tác giả cũng không dùng kháng sinh chích tiền phòng vì viêm mủ nội nhãn gần như không. Tác giả coi lại 16.000 ca ở Canada thì thấy tỷ lệ viêm mủ nội nhãn rất ít và từ đó tác giả không cần dùng 1 biện pháp nào phòng tránh và từ đó cũng không cần dùng 1 biện pháp phòng tránh nào khác hơn là chỉ nhỏ kháng sinh. Cũng có phẫu thuật viên chích moxifloxacin trực tiếp vào trong tiền phòng vì thuốc này không có chất bảo quản và lúc nào cũng sẳn sàng bán ở Mỹ. Còn đối với cefuroxime thường được dùng ở Châu Âu thì ở hoa kỳ phòng mổ phải tự pha, điều đó gây phức tạp vì trong những trung tâm phẫu thuật mổ nhiều bệnh nhân thì những phương pháp nào càng phức tạp bao nhiêu thì càngcó nguy cơ bấy nhiêu trong việc pha thuốc được chính xác.

5

6

IV. Khi nào bắt đầu và ngừng dùng kháng sinh Có 3% các hội viên được hỏi đã không dùng bất cứ 1 kháng sinh nào nhỏ hậu phẫu và 50% người được hỏi cho biết không những không chích kháng sinh vào tiền phòng mà cũng không dùng kháng sinh nhỏ hậu phẫu. Bác sĩ Mamalis nghĩ rằng chích kháng sinh vào tiền phòng là đủ, thì loại bỏ kháng sinh hậu phẫu cũng hợp lý. Đối với các khuẩn sống ở mặt nhãn cầu mà vẫn tồn tại, có thể là do các khuẩn sống cộng sinh ở kết mạc hay ở mí của bệnh nhâ,n thì theo tác giả điều quan trọng là phải khử trùng trước khi mổ với povidone cũng như dùng kháng sinh nhỏ để làm giảm lượng vi khuẩn sống trên mặt nhãn cầu lúc đầu phẫu thuật. Tác giả cũng nghĩ việc giảm dần liều nhỏ kháng sinh fluoroquinolone hậu phẫu là V. Những ý kiến khác biệt Mặc dù thuốc cefuroxime đã có sẵn ở Châu Âu nhưng hình như ở bên mỹ không chấp nhận căn cứ vào những kết quả nghiên cứu ở châu âu. Việc nghiên cứu an toàn và hiệu quả của thuốc thì nghiên cứu nhưng chỉ có khoảng 1.000 bệnh nhân cho thấy không có phản ứng phụ khi chích vào trong tiền phòng, 1 nghiên cứu có trong lượng và cần phải 10.000 bệnh nhân để biết tần suất thấp

không cần thiết. Việc giảm dần này có nguy cơ làm tăng sự lờn thuốc và làm giảm hiệu quả. Có 1 vài phẫu thuật viên khuyên bệnh nhân mua thuốc nhỏ kháng sinh sẵn để vào trong phòng mổ để nhân viên phòng mổ mở hoặc rút để chích và cùng lọ thuốc đó được cho bệnh nhân để bệnh nhân nhỏ trong 7 ngày hậu phẫu; điều này đã giúp giảm chi phí cho bệnh nhân. Đối với những người không chích trong tiền phòng thì 50% dùng những thuốc pha trộn để đỡ chi phí. Về việc chích kháng sinh vào tiền phòng thì 41% người được hỏi cho rằng rất là quan trọng nhưng 53% thì không dùng.

viêm mủ nội nhãn. Lý tưởng mà FDA Hoa Kỳ đòi hỏi là những dữ kiện an toàn sử dụng thuốc này có hiệu quả ở những nghiên cứu có mẫu dùng được chấp thuận. Và khi FDA đòi hỏi những dữ kiện về hiệu quả thì chúng ta đã không có 1 loại kháng sinh nào được chấp nhận chích vào tiền phòng trong tương lai gần.

Tóm lược 1. Kháng sinh chích tiền phòng được sử dụng nhiều ở ngoài nước Mỹ. 2. Nghiên cứu xác nhận kháng sinh chích vào tiền phòng giảm nguy cơ viêm mủ nội nhãn. 3. Những đòi hỏi ở Hoa Kỳ về độ an toàn và hữu hiệu có nghĩa là kháng sinh chích tiền phòng không được chấp nhận để ngăn ngừa viêm mủ nội nhãn. Lược dịch bác sĩ Nguyễn Cường Nam

Santen hân hạnh tài trợ

6

7

Ý KIẾN CỦA CÁC CHUYÊN GIA CHÂU Á THÁI BÌNH DƯƠNG VỀ NGĂN NGỪA VIÊM MỦ NỘI NHÃN I. Bác sĩ Aditya Kekar Ấn Độ, Viện Mắt Trung Ương Ấn Độ; viêm mủ nội nhãn sau phẫu thuật đục thủy tinh thể được ngăn ngừa rất cẩn thận, chúng tôi trong thực hành tầm soát toàn bộ bệnh nhân để tránh nhiễm trùng cục bộ và toàn thân. 1. Đầu tiên chúng tôi nhỏ povidone iodine 5% vào túi kết mạc sau đó nhỏ dung dịch 10% ngoài mí trong 3 phút trước khi trải khăn và sửa soạn việc phẫu thuật. Cẩn thận đến tối đa việc dùng các găng tay không có phấn, dùng các dụng cụ 1 lần rồi bỏ và những miếng dán mí che mắt. điều quan trọng là phải cận trọng đến tối đa để tránh những biến chứng trong lúc mổ. 2. Trong lúc mổ: dùng những IOL đã nạp sẵn vào trong ống nạp và đường rạch khít không để dịch thoát ra. Nếu cần có thể khâu thêm để bảo đảm vết mổ khít. Bảo đảm việc vệ sinh, vô khuẩn để tránh nhiễm trùng. 3. Dùng kháng sinh cần phải rất lưu ý: nhỏ kháng sinh fluoroquinolone thế hệ 4 trước mổ và tiếp tục nhỏ 2 giờ/ 1 lần ngày đầu sau mổ và giảm dần trong 2 tuần. chích kháng sinh vào tiền phòng như cefuroxime, như ESCRS đã khuyên bảo nhưng ít được các bác sĩ Ấn Độ chấp thuận vì thuốc này không có sẵn. II. Bác sĩ Manish Nagpal -Hiệp hội võng mạc Ấn Độ viêm mủ nội nhãn sau mổ tuy hiếm nhưng vẫn là 1 trong những biến chứng đáng sợ nhất sau mổ đục thủy tinh thể. Với những thuốc mới hiện nay, cũng như Santen hân hạnh tài trợ

các chiến lược xử lý mới thì kết cục gây viêm mủ nội nhãn đã cải thiện được rõ rệt. Tuy nhiên việc ngăn ngừa vẫn là quan trọng nhất. Theo tôi có 2 yếu tố làm giảm tần suất viêm mủ nội nhãn là: 1. Việc dùng povidoneiodi ne 2. Sự chuyển tiếp việc mở tiền phòng ở trong phẫu thuật đặt kính ngoài bao đến việc mổ phaco có tiền phòng đóng kín, áp suất tiền phòng dương tính trong thời gian phẫu thuật đã ngăn ngừa được các khuẩn sống ký sinh ở kết mạc di chuyển vào trong mắt gây viêm mủ nội nhãn. Về việc dùng kháng sinh tiền phòng: không có 1 phương cách nào được nhất trí, thật khó để làm nghiên cứu do việc cần rất lớn số bệnh nhân để chứng tỏ tránh được nhiễm trùng. Tuy nhiên trong thực tế hầu hết các phẫu thuật viên ở Ấn Độ chích kháng sinh vào tiền phòng ở lúc cuối phẫu thuật và thuốc được dùng nhiều nhất là moxiflaxacin; Thuốc này đã rút rất dễ dàng từ thuốc của bệnh nhân, lúc nào cũng được bán sẵn thay vì các thuốc khác phải pha hay không có sẵn. Vì chúng tôi không có những dữ kiện khẳng định về hiệu quả của việc chích thuốc moxiflaxacin vào trong tiền phòng, chúng tôi nghĩ hầu hết các bác sĩ đã dùng 1 trong những phương cách sau đây để ngăn ngừa: nhỏ kháng sinh trước và sau mổ, chích kháng

7

8

sinh vào tiền phòng, chích dưới kết mạc tùy thuộc vào các phẫu thuật viên thực hành. III. Bác sĩ Kenneth Fong ở Mã Lai, phẫu thuật viên tham vấn ở trung tâm Y khoa Sun Way: viêm mủ nội nhãn tuy hiếm sau khi mổ đục thủy tinh thể với phương pháp phaco (tỷ lệ trung bình 0.1%) nhưng nếu xảy ra nó có thể gây thảm hại cho bệnh nhân. Điều quan trọng là phải làm mọi thứ có thể được để ngăn ngừa biến chứng này. Phương pháp ngăn ngừa của tôi là việc xử lý trước phẫu thuật, trong phẫu thuật và sau phẫu thuật. A. Trước phẫu thuật: những nguy cơ gây nhiễm trùng để xử lý gồm: 1. bệnh nhân bị suy miễn nhiễm (tiểu đường hay các bệnh gây suy miễn nhiễm); 2. những bệnh tự miễn như viêm thấp khớp hay eczema nặng; 3. những bệnh nhân thay đổi tâm thần như hội chứng Down 4. bị nhiễm trùng hoạt tính ở mắt hay những bệnh nặng ở bờ mí; 5. những bệnh nhân không tự chăm sóc được như những người già tật nguyền hay bị tai biến. Chưa nên mổ ở những bệnh nhân này cho đến khi bệnh đã được chăm sóc cẩn thận. Điều trị viêm mủ nội nhãn hậu phẫu Viêm mủ nội nhãn cấp tính có thể xảy ra sau 48 giờ sau mổ và cần chẩn đoán tức khắc với 3 dấu hiệu: 1. Mủ tiền phòng; 2. Đau nhức; 3. Mắt mờ. Rút 0.1 ml thể kính và 0.1 ml thủy dịch để đem cấy, thử độ nhạy cảm của khuẩn. sau Santen hân hạnh tài trợ

B. Trong lúc mổ: cẩn thận dùng povidone iodine rửa lông mi kết mạc và những vùng chung quanh mắt. lông mi có thể được cắt bỏ hoặc dùng băng để dán. Việc tạo đường rạch cũng rất quan trọng. Tôi dùng dao giác mạc 2.6 mm và làm đường rạch vuông 2 tầng, chiều dài của đường rạch giác mạc tương đương về bề rộng của vết mổ cho vết mổ chóng lành. Ở cuối lúc phẫu thuật chích 0.1 ml moxiflaxacin vào trong tiền phòng qua đường rạch bên. Kháng sinh được rút trực tiếp từ 1 lọ thuốc mới ở trong phòng mổ sau đó đưa cho bệnh nhân dùng sau mổ. Tôi không dùng cefuroxime hay vancomycin chích vào trong tiền phòng vì những thuốc này đồi hỏi phải pha loãng việc pha loãng thuốc có thể gây nguy cơ khi pha sai liều lượng, chích vào trong tiền phòng gây độc hại, thương tổn cho nội mô giác mạc. Có thể khâu thêm ở đường rạch giác mạc ở trường hợp có nguy cơ cao nhiễm trùng ở những mắt bị cận thị nặng và bệnh nhân dụi mắt sau phẫu thuật khi bị eczema hay hội chứng Down. C. Sau mổ: tôi thường cho nhỏ moxiflaxacin và predinoslone acetate 1% 3h/ 1 lần sau khi bệnh nhân thức giấc. Lúc bệnh nhân ngủ không nhỏ thuốc, không cho bệnh nhân uống kháng sinh toàn thân sau mổ. Che mắt bệnh nhân bằng miếng che plastic 1 tuần. Khuyên bảo bệnh nhân không dụi mắt và dội nước vào mắt mổ ít nhất là 2 ngày sau mổ. đó chích 0.1 ml vancomycin (1 mg/0.1 ml) và 0.1 ml ceftazidime (2.25 mg/ 0.1 ml). Những kháng sinh này dưới dạng bột và phải pha loãng cẩn thận; sau đó cho uống moxiflaxacin 400 mg 1 lần/ 1 ngày trong 5 ngày thuốc này thấm vào mắt được nhiều. tôi không dùng steroid toàn thân hay chích vào tiền phòng. 8

9

Việc quyết định cắt thể kính qua Pars võng mạc. Những kỷ thuật cắt thể kính mới Plana phụ thuộc vào thị lực của bệnh nhân. đã giảm được nguy cơ kéo võng mạc và rách Nếu bệnh nhân có thị lực lớn hơn BBT, võng mạc. thường tôi để 48 giờ để biết việc chích kháng Nghiên cứu cắt thể kính ở viêm mủ nội sinh có làm tăng thị lực và bớt mủ ở tiền nhãn đã có hiệu quả tốt trong việc xử lý bệnh phòng không; nếu bệnh nhân có thị lực nhỏ nhân viêm mủ nội nhãn cấp sau mổ đục thủy hơn BBT lúc đầu khám nghiệm hay thị lực tinh thể. Điều trị ở những bệnh nhân này không cải thiện sau 48 giờ chích kháng sinh thường theo hướng dẫn của EVS và hầu hết vào thể kính thì tôi cắt thể kính qua pars được điều trị trong bệnh viện với việc hút plana kim 23 để rửa tiền phòng và chích pha la thể và chích kháng sinh vào thể kính vancomycin và ceftazidime. Tránh lấy IOL ở hơn là điều trị trong phòng mổ. Và hầu hết lần mổ đầu và chỉ lấy IOL khi nhiễm khuẩn được xử lý ngoại việc mà không cần phải tái phát sau khi cắt thể kính. nhập viện và không dùng kháng sinh chích Việc mổ cắt thể kính ở trường hợp này tĩnh mạch. thường rất khó khăn vì mắt vị viêm nặng và Kết cục về thị lực sau khi điều trị viêm giác mạc thường bị đục. Tôi cố gắng gây mủ nội nhãn thường không được tốt; chỉ 50% bong thể kính sau để lấy mẫu thể kính càng mắt có thị lực tốt hơn 20/40 từ đó việc ngăn nhiều càng tốt, nhất là quanh vùng pars ngừa viêm mủ nội nhãn cần phải coi là vấn plana. Cũng có nguy cơ cao bị bong võng đề ưu tiên khi mổ đục thủy tinh thể. mạc do viêm gây co kéo thể kính và rách Ý kiến cá nhân Tôi đã dùng chích vigamox chích vào tiền phòng sau mổ đục thủy tinh thể từ 20 năm nay sau bài thuyết trình của bác sĩ Espiritu tại Tp HCM trong buổi hội thảo do Alcon tổ chức tại khách sạn Caravelle. Từ đó đến nay tôi không thấy 1 ca viêm mủ nội nhãn nào nhất là những trường hợp đi mổ từ thiện. Tôi hoàn toàn đồng ý với bác sĩ Manish Nagpal và bác sĩ Kenneth Fong trong việc xử lý ngăn ngừa viêm mủ nội nhãn với fluoroquinolone thế hệ 4 trước mổ và sau mổ cũng như chích moxiflaxacin vào tiền phòng sau mổ. Sau mổ tôi không dùng kháng sinh toàn thân. Lược dịch bác sĩ Nguyễn Cường Nam

TIÊM KHÁNG SINH TIỀN PHÒNG SO VỚI THUỐC NHỎ MẮT Phóng viên Maxine Lipner tổng hợp Eyeworld 3/2015, trang 3-4 Lược dịch bác sĩ Nguyễn Cường Nam 1. Những điều giá trị nhất: Đâu là bằng chứng? Đối với các phẫu thuật viên mổ đục thể thuỷ tinh, luôn luôn phải lưu ý phòng ngừa viêm mủ nội nhãn. Tuy nhiên, một số PTV tiêm kháng sinh tiền phòng, trong khi số khác vẫn dùng thuốc nhỏ. Báo Eyeworld tổng hợp những chứng cứ khoa học. Santen hân hạnh tài trợ

9

10

Bs Audrey Talley Rostov, PTV tại Seattle, nghĩ rằng bằng chứng rõ ràng chỉ ra rằng phương pháp tiêm kháng sinh nội nhãn có hiệu quả. BS xem xét nghiên cứu ESCRS hồi cứu ngẫu nhiên công bố tháng 3/2006 là một thử nghiệm mấu chốt. Những BN trong nghiên cứu chia 4 nhóm: thuốc nhỏ, tiêm tiền phòng, dùng cả 2, và không dùng 2. Với phương pháp chích tiền phòng, số lượng BN viêm mủ nội nhãn giảm 5 lần. Trong khi đó, BS Neal Shorstein đã làm một nghiên cứu công bố tháng Để phòng ngừa viêm mủ nội nhãn như trường 01/2013 cũng nghiên về chích kháng hợp này, rất nhiều bằng chứng cho thấy tiêm kháng sinh nội nhãn hiệu quả hơn dùng kháng sinh tiền phòng. Nghiên cứu này cho biết viêm sinh nhỏ. mủ nội nhãn giảm 2.2 lần trong 2 năm Bs Peter Barry tham vấn ở BV mắt đầu khi theo dõi 5 năm về chích cefuroxime Hoàng gia Victoria, và BV ĐH Vincent’s, tiền phòng. Và trong 2 năm tiếp theo của Dublin, cũng cho rằng tiêm kháng sinh tiền nghiên cứu, tỷ lệ viêm mủ nội nhãn giảm đi phòng giúp ngừa viêm mủ nội nhãn tốt hơn. 10 lần khi tất cả BN được chích kháng sinh Ông cũng dẫn chứng nghiên cứu ESCRS mà cefuroxime, moxifloxacin, hay vancomycin ông là người đứng đầu nhóm tác giả. tiền phòng. 2. Được ưa dùng ở Châu Âu: Ở châu Âu, rất nhiều các bác sĩ được thuyết phục rằng tiêm kháng sinh tiền phòng dựa vào bằng chứng, dựa vào thử nghiệm ESCRS. Nhiều nghiên cứu ở Pháp và Tây Ban Nha cũng đã xác nhận điều này. Ngoài châu Âu, còn có nhiều nghiên cứu khác trên thế giới cũng tiêm kháng sinh tiền phòng khi tỷ lệ viêm mủ nội nhãn cao. Bs Barry cho biết thông thường, thuốc tiêm

vão tiền phòng là cefuroxime. Tên thương mại của cefuroxime tại Pháp là Aprokam được chấp nhận toàn châu Âu. Gần đây, cuộc điều tra của ESCRS công bố tháng 01/2014 cho thấy cefuroxime là lựa chọn hàng đầu. Ở châu Âu, 74% PTV trong nghiên cứu tiêm nội nhãn, và 82% trong số này sử dụng cefuroxime. Số PTV sử dụng vancomycin hay moxifloxacin rất ít.

3. Thuốc nhỏ: Ngoài phương pháp tiêm tiền phòng, các BS còn dùng kháng sinh nhỏ tại chỗ. Theo Bs. Francis Mah, ĐH La Jolla, California, có những nghiên cứu hồi cứu cho thấy hiệu quả của kháng sinh nhỏ trong phẫu thuật đục thể thuỷ tinh từ năm 1964 với

số lượng trên 20000 ca. Bs. Mah cho biết: “ Theo Henry Allen thì không dùng kháng sinh nhỏ trước mổ là một yếu tố nguy cơ gây nhiễm trùng hậu phẫu. Một nhóm nghiên cứu tương tự năm 1974 cho thấy có loại kháng sinh có thể giảm tỷ lệ viêm mủ nội nhãn.

Santen hân hạnh tài trợ

10

11

Gần đây có nhiều tư liệu hồi cứu cho thấy chỉ có 1/5000. dùng fluoroquinolones giảm tỷ lệ viêm mủ “Tôi nghĩ rằng 1/1000 hay hơn nữa thì điều nội nhãn và đổi fluroquinolone thế hệ cũ tốt là chỉ cần thay đổi những gì chúng ta sang thế hệ mới còn giảm tỷ lệ nhiều hơn đang dùng”. nữa. Mặc dù Bs. Mah là người sử dụng Thêm nữa, nhiều nghiên cứu cho thấy kháng sinh nhỏ và cho thấy 15 năm nay, ông các vi khuẩn sống cộng sinh bị tiêu diệt bởi chưa gặp trường hợp viêm mủ nội nhãn nào, kháng sinh. Bằng chứng là sử dụng nhưng gần đây ông cũng chuyển sang tiêm povidone-iodine cho thấy chúng là nguồn kháng sinh tiền phòng. Từ đó, BS. Mah lưu gốc của 80% trường hợp viêm mủ nội nhãn. ý mỗi PTV cần đánh giá những dữ kiện và Hiện nay, chỉ một thử nghiệm tiến cứu thực hành lâm sàng của mình. Bs Mah nói: được thực hiện sử dụng kháng sinh nhỏ là “Tôi không khuyến khích PTV nào làm phức nghiên cứu ESCRS so sánh với phương tiêm tạp thêm trong mổ, ví dụ tiêm kháng sinh tiền nội nhãn. Nghiên cứu cho thấy phòng có thể gây hội chứng TASS hay phản Levofloxacine 0.5% không có hiệu lực giảm ứng quá mẫn với những thuốc chưa được viêm mủ nội nhãn. Bs. Mah cũng bổ sung FDA công nhận. rằng fluoroquinolone thế hệ cũ không phải là Bs. Talley Rostov lại lựa chọn tiêm lựa chọn tốt. Dù rằng nghiên cứu này chưa kháng sinh tiền phòng, bà đã dùng vài năm đủ mẫu để cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa nay sau khi gặp 1 trường hợp viêm mủ nội vì giả sử tỉ lệ viêm mủ nội nhãn là 1/1000 thì nhãn. Ban đầu, BS dùng kháng sinh dạng lọ, cần có một nghiên cứu lên tới 50000-70000 nhưng sau đó đổi từ dùng vancomycin nhỏ bệnh nhân. Vì vậy không có nghiên cứu tiến sang chích vào tiền phòng, nhưng vẫn dùng cứu nào có bằng chứng rằng thuốc nhỏ tại kháng sinh nhỏ 1 tuần sau mổ. chỗ có tác động giảm viêm mủ nội nhãn. Bs. Mah nghĩ rằng thực tế tại Mỹ sẽ Tuy nghiên nghiên cứu này cũng cho thay đổi bởi những chứng cứ trong y văn đều thấy tiêm kháng sinh tiền phòng làm giảm tỷ hỗ trợ chích kháng sinh tiền phòng. Hầu hết lệ viêm mủ nội nhãn. các PTV đang chờ đợi FDA công nhận một Nhìn chung, có 4 nghiên cứu tiến cứu cho loại thuốc tối ưu, đơn liều có thể tiêm tiền thấy tiêm cefuroxime tiền phòng giảm tỷ lệ phòng. Nếu thuốc đã có sẵn thì 80% PTV tại viêm mủ nội nhãn. Mỹ chắc chắn sẽ thích. Bs. Mah cũng ghi nhận trong y văn Bs. Barry nghĩ rằng tiêm kháng sinh thiên về tiêm kháng sinh tiền phòng, nhưng tiền phòng sẽ sớm chiếm ưu thế tại Mỹ. ông nghĩ nếu thay đổi kháng sinh nhỏ cũng Nhiều PTV muốn dùng nó và con số này sẽ có thể làm giảm tỷ lệ viêm mủ nội nhãn. Tỷ tăng thêm. Nhưng nếu sử dụng thuốc họ cần lệ trong y văn của viêm mủ nội nhãn khoảng sự bảo đảm thuốc được chấp thuận như thuốc 1/1000, nhưng một vài tài liệu cho thấy tỷ lệ Aprokam đang được lưu hành. Tóm tắt: 1. Một nghiên cứu tiền cứu cho thấy tiêm kháng sinh tiền phòng giúp giảm tỷ lệ viêm mủ nội nhãn 5 lần. 2. Ở châu ÂU tiêm kháng sinh tiền phòng được ưa thích ở nhiều nước mà nhiều nghiên cứu đã ủng hộ. Trong khi y văn vẫn ủng hộ dùng thuốc nhỏ tại chỗ với những chứng cứ hồi cứu, tuy nhiên chưa có chứng cứ tiến cứu nào.

Santen hân hạnh tài trợ

11

12

TIÊM KHÁNG SINH TIỀN PHÒNG: PHÁC ĐỒ CỦA TRUNG TÂM KAISER HOA KỲ Nghiên cứu từ một trung tâm cho thấy tiêm cefuroxime, vancomycin và moxifloxacine tiền phòng có thể ngăn ngừa nhiễm trùng. Phóng viên Ellen Stodola tổng hợp Eyeworld tháng 3/2015, trang 10-11. Nguy cơ nhiễm trung hậu phẫu như viêm mủ nội nhãn là vấn đề chính sau phẫu thuật đục thể thuỷ tinh. Tiêm kháng sinh tiền phòng là một giải pháp có thể giảm tỷ lệ nhiễm trùng hậu phẫu. Trong một nghiên cứu tiêm kháng sinh tiền phòng tại Mỹ, các Bác sĩ tại viện Kaiser đã tranh luận về thuốc. Bs. Richard Kent Stiverson, Colorado và Bs. Neal Shortein, California thảo luận kinh nghiệm và nghiên cứu vấn đề này. 1. Điều gì thúc đẩy nghiên cứu? Bs. Stiverson nói: “Ở Colorado, chúng tôi rất buồn vì kết cục xấu của những trường hợp viêm mủ nội nhãn”. Một số trường hợp tiêm kháng sinh vào dịch kính hoặc cắt dịch kính nhưng thị lực vẫn tổn hại nặng. Hầu hết những BN của chúng tôi có thị lực rất xấu sau viêm mủ nội nhãn. Chúng tôi rất may mắn khi có 2 Bs nhãn khoa đã làm những thử nghiệm có mẫu lớn về viêm mủ nội nhãn. Hai bác sĩ này là: Bs. Shortein ở Bắc California đã công bố kết quả năm 2013 và Bs. Lee Schelonka ở Colorado phân tích dữ liệu theo mẫu nghiên cứu của ESCRS về viêm mủ nội nhãn. Bs. Shortein cho biết tỷ lệ nhiễm trùng ở Bắc California đặc biệt cao vào năm 2007 đã thúc đẩy ông làm nghiên cứu ở vùng này bắt đầu từ năm 2011-2012. Ông nói: “Bởi vì Kaiser là một cơ sở hợp nhất, chúng tôi có đầy đủ những phương tiện để để kiểm soát nhiễm khuẩn. Ngoài những khuyến cáo về các tiến trình vô khuẩn và làm sạch, nhưng chúng tôi cũng không rõ nguyên nhân gây viêm mủ nội nhãn. Cùng lúc đó các bác sĩ cũng cố gắng cùng nhau tìm xem điều gì có thể cải thiện tỷ lệ nhiễm khuẩn. Xem xét lại đường rạch mổ, quản lí và bắt đầu nghiên cứu theo mẫu của ESCRS. Chúng tôi quyết định dùng phác đồ của ESCRS về việc sử dụng cefuroxime tiêm Santen hân hạnh tài trợ

tiền phòng sau phẫu thuật đục thể thuỷ tinh. Từ năm 2008, 14 phẫu thuật viên bắt đầu sử dụng cefuroxime cho bệnh nhân. Vẫn chưa rõ liệu việc tiêm này có an toàn cho những trường hợp phẫu thuật có biến chứng như rách bao sau, vì vậy chúng tôi chỉ chích cho những trường hợp mắt không dị ứng và không có biến chứng, tỷ lệ khoảng 80-85% phẫu thuật. Cuối năm 2009, Bs. Shorstein đã xem xét lại những trường hợp nhiễm trùng từ năm 2008 và 2009, tỷ lệ đã giảm còn một nửa. Hai phần ba số BN bị viêm mủ nội nhãn không được tiêm cefuroxime do dị ứng hoặc phẫu thuật có biến chứng. Từ quan điểm này, có nhiều đề tài trong y văn cho thấy Moxifloxacin được sử dụng an toàn, từ đó chứng tôi thống nhất tiếp tục dùng Cefuroxim như là thuốc đầu tay vì thuốc này được nhiều ủng hộ trong y văn từ nghiên cứu của ESCRS và những nghiên cứu mới đây cho thấy sự an toàn và hiệu quả. Lựa chọn thứ 2 là Moxifloxacin và thứ 3 là Vancomycin cho những BN bị dị ứng. Tất cả mắt cuối phẫu thuật đều được tiêm 1 trong 3 loại kháng sinh này. Thuận lợi của chúng tôi là cùng ở Kaiser cùng khoa nên chúng tôi có dược sĩ ở trung tâm phẫu thuật giúp chúng tôi pha chế thuốc.

12

13

2. Những thay đổi có nhiều tranh cãi? Bs. Shorstein yêu cầu các thành viên sinh không? Ở Colorado hầu hết bác sĩ sử trong nhóm xem xét lại những bằng chứng dụng Polymyxin B và Trimethoprim nhỏ và trong và ngoài khoa để tìm ra sự thống nhất. tiêm vancomycin hoặc Moxifloxacin. Còn ở Ông nói: “Chúng tôi coi lại trong y văn và California, các bác sĩ lại tiêm kháng sinh tiền thống nhất với phác đồ”. phòng mà không dùng thuốc nhỏ. Bs. Stiverson yêu cầu xem xét nghiên Ông cũng cho rằng điều gây lưỡng lự cứu ở Colorado: “Kinh nghiệm trong bệnh cho BS ở Colorado là kháng sinh nào là tốt viện giống hệt những gì xảy ra ở ASCRS. nhất và có sử dụng thuốc nhỏ cho tất cả các Mặc dù cố gắng chuẩn hoá việc tiêm kháng trường hợp hay không? Nghiên cứu của Bs. sinh tiền phòng, nhưng ở California và Shorstein thì dùng cả 3 loại kháng sinh Colorado không thực hành giống nhau và ở nhưng Cefuroxime được cho là thuốc đầu mỗi vùng, không phải tất cả các bác sĩ cùng tay. Tuy nhiên cũng có những đánh giá sử thực hiện một tiêu chuẩn.” Tuy nhiên, ở dụng moxifloxacin và Vancomycin. Colorado, ông thấy mỗi bệnh nhân đều được Theo ông thì thật khó để biết sự khác tiêm Vancomycin trong chai dung dịch muối biệt trong hiệu quả tiêm cefuroxime hay đẳng trương, hay tiêm Moxifloxacin tiền moxifloxacin và vancomycin phòng viêm mủ phòng vào cuối phẫu thuật. Và hầu hết các nội nhãn, vì nồng độ ức chế tối thiểu rất cao, bác sĩ vẫn tranh cãi có tiếp tục nhỏ kháng và chủ yếu là độ an toàn và giá tiền. 3. Phác đồ điều trị và tiến trình thực hành Bs. Shorstein nói: “Lần đầu tiên chúng tôi và Moxifloxacin. Khoảng 80% mắt đã được tiêm tại khoa năm 2009, chúng tôi thoả thuận tiêm kháng sinh tiền phòng từ năm 2013, và là mỗi BN đều phải đảm bảo được chích mặc dù chưa có những dữ kiện từ năm 2014 thuốc sau phẫu thuật. Từ năm 2008 đến năm nhưng gần100% bệnh nhân đã được tiêm 2013, khoa dược ở BN đã pha thuốc kháng thuốc. Ở Colorado, tiêu chuẩn là Polymyxin sinh và cung cấp cho trung tâm phẫu thuật B/ Trimethorpim cho nhỏ ngày trước phẫu mỗi bệnh nhân phẫu thuật đục thể thuỷ tinh. thuật và tiếp tục trong vòng 1 tuần sau mổ. Nếu BN bị dị ứng thì chuyển phác đồ đặc Thêm povidon-iodine trước mổ và biệt tiêm loại thuốc thứ 2 hoặc thứ 3. Hiện Vancomycin cho vào chai dung dịch nước nay chúng tôi thấy tiêm kháng sinh tiền muối đẳng trương. Khoảng một nửa phẫu phòng rất hữu hiệu, tỷ lệ nhiễm trùng rất thấp thuật viên tiêm Moxifloxacin tiền phòng vào và rất khó so sánh hiệu quả của Cefuroxime cuối phẫu thuật. 4. Những kết quả từ khi thay đổi phác đồ: Kết quả hết sức ấn tượng Bs Stiverson cho làm thay đổi chúng tôi. Bs. Shorstein rất biết: “Trong vòng 6 năm nay, chúng tôi phấn khích khả năng bảo tồn thị lực khi tiêm không bị một ca viêm mủ nội nhãn nào sau kháng sinh tiền phòng, đặc biệt với những mổ đục thể thuỷ tinh. Trước kia khi dùng thuốc đầu tay và kết quả nghiên cứu. Ông Vancomycin thì tỷ lệ viêm mủ nội nhãn là nói: “Tôi nghĩ rào cản lớn nhất cho các PTV 1/1000 ca và đỉnh là 2/1000 ca. Chúng tôi Mỹ thực hiện tiêm kháng sinh tiền phòng là phải xem xét lại phẫu thuật. Nếu chúng tôi có phải có thuốc pha sẵn.” Ông hi vọng những những thành công tốt nhờ phương pháp nào liều thuốc có sẵn này sẽ sớm được thực hiện đó thì rất khó để thay đổi. Chưa bao giờ có với sự hợp tác của FDA và các hãng thuốc, những tiêu chuẩn điều trị viêm mủ nội bởi vì lợi ích của bệnh nhân. nhãn, nhưng tiêm kháng sinh tiền phòng đã Santen hân hạnh tài trợ

13

14

KẾT QUẢ CUỘC ĐIỀU TRA CỦA ASCRS VỀ NGĂN NGỪA VIÊM MỦ NỘI NHÃN BẰNG KHÁNG SINH Tác giả: Michelle Dalton viết theo tài liệu của các chuyên gia Eyeworld tháng 3/2015 trang 16 - 17 Các bác sĩ có kinh nghiệm bàn luận về lợi điểm và yếu điểm của các kháng sinh đã có sẵn. Vào năm 2007 hội đồng ASCRS đã mở cuộc điều tra, hỏi các hội viên về các cách ngăn ngừa viêm mủ nội nhãn bằng kháng sinh. Thử nghiệm đầu tiên về ngăn ngừa viêm mủ nội nhãn của ESCRS Châu Âu là 1 thử nghiệm ngẩu nhiên tiền cứu được báo 65% người được hỏi là Hoa Kỳ cáo vào năm 2006 đã cho thấy tỷ lệ viêm mủ 9 % người được hỏi là Châu Âu nội nhãn đã giảm đi 5 lần khi chích 5% người được hỏi là Canada cefuroxime vào tiền phòng ở cuối lúc mổ. 13% người được hỏi là Châu Mỹ la tinh Mục tiêu của cuộc điều tra của hội Hoa Kỳ là 1% người được hỏi là Châu Á đánh giá việc dùng ngăn ngừa vừa nhỏ kháng 7% người được hỏi là Châu Phi sinh vừa chích kháng sinh vào tiền phòng và cũng để đánh giá tác động viêm mủ nội nhãn theo nghiên cứu ở Châu Âu về việc chích trực tiếp kháng sinh vào tiền phòng. Tổng cộng 1312 hội viên đã trả lời hoặc điều tra online vào năm 2007 (tỷ lệ trả lời 18%). Với 30% các hội viên chích kháng sinh tiền phòng thì khoảng 50% bơm kháng sinh vào trong chai truyền dịch và 50% chích trực tiếp. Vancomycin là thuốc thông dụng nhất, 61% chích vào trong tiền phòng cuối 27% chích 1 ngày trước mổ cùng 82% các hội viên dùng những kháng 41% chích 3 ngày trước mổ sinh đã có sẵn ở ngoài để chích trực tiếp nếu 15% không dùng thuốc nhỏ giá cả chấp nhận được. 17% chích lúc bắt đầu mổ Ở giai đoạn kế tiếp rất nhiều những Điều tra hỏi: khi nào thì đồng nghiệp bắt nghiên cứu hậu cứu lớn đã công bố hỗ trợ về đầu cho nhỏ kháng sinh trước mổ hiệu quả của cefuroxime chích vào trong tiền phòng. Cả 2 hiệp hội Châu Âu và Hoa Kỳ lần sau 4 năm khi chích kháng sinh vào tiền năm 2011 đã hỗ trợ cho việc chích trực tiếp phòng, là 1 phương cách thường quy sau mổ vào tiền phòng hơn là những phương pháp đục thủy tinh thể. Một phát triển có ý nghĩa đã được chấp ngăn ngừa dùng kháng sinh khác. Tần suất trong 6 năm viêm mủ nội nhãn ở Thụy Sĩ nhận vì việc dùng aprokam; là thuốc được chích cefuroxime vào tiền phòng đã cefuroxime có bán sẵn để chích vào tiền được báo cáo là 0.029%. Cuối cùng vào năm phòng tại 24 nước ở Châu Á. Cho đến nay 2012, 1 nghiên cứu hậu cứu của KAISER công ty sản xuất thuốc này đã bán trên 1.3 cho biết tỷ lệ viêm mủ nội nhãn đã giảm 22 triệu đơn vị. Santen hân hạnh tài trợ

14

15

Hiệp hội Châu Âu cũng đã tuyên bố bảng hướng dẫn ngăn ngừa viêm mủ nội nhãn vào năm 2013 để hỗ trợ cho việc chích cefuroxime vào tiền phòng. Với kết quả của công bố này, hiệp hội Hoa Kỳ đã công bố kết quả của việc chích kháng sinh vào tiền phòng ngoại lệ được dùng tại Hoa Kỳ trong đó không có 1 thuốc nào được bán ngoài thương mại mà được chấp thuận. Chúng tôi cũng đã điều tra lại các hội viên về việc ngăn ngừa viêm mủ nội nhãn trong thực tế. Hầu hết những câu hỏi của năm 2007 đã được nhắc lại để biết sự khác biệt và khuynh hướng. Từ đó, phân tích lại. Cuộc điều tra năm 2014 bắt đầu từ tháng 8 của hiệp hội hoa kỳ, tổng cộng có 47 hội viên đã trả lời (tỷ lệ 15%). Hầu hết các hội viên trả lời (65%) ở Hoa Kỳ, số còn lại ở Châu Mỹ la tinh, Nam Phi, Mexico (13%), Châu Âu (9%), Phi Châu (7%), Canada (5%), Á Châu (1%). Các hội viên trả lời là các phẫu thuật viên tích cực, 67% ít nhất đã làm trên 300 ca/ 1 năm, 41% đã làm trên 500 ca/ 1 năm. Cuộc điều tra cho biết 90% các hội viên đã dùng kháng sinh nhỏ xung quanh cuộc mổ (coi như tỷ lệ không đổi năm 2007 là 91%). Các hội viên dùng những thế hệ fluoroquinolones nhỏ ở thế hệ cuối cùng gồm 81% năm 2007 xuống còn 60% năm 2014. Sự thay đổi này cho thấy việc sử dụng nhiều ofloxacin hay ciprofloxacin (21% so với 9% năm 2007). Kháng sinh nhỏ trước mổ được dùng ở 85% hội viên, 32% 1 ngày trước mổ và 48% 3 ngày trước mở. Tỷ lệ này cũng giống như năm 2007. Thuốc nhỏ kháng sinh hậu phẫu được dùng ở 96% hội viên (cũng không thay đổi so với năm 2007 là 98% vào năm 2007). Thuốc được nhỏ ngày phẫu thuật là 73% và ngày đầu sau mổ là 23% so với 2007 là 65% và 33%. Sau 4 tuần, ngưng thuốc là 72% (không giảm thuốc) và sau 1 tuần là 21% và giảm

Santen hân hạnh tài trợ

37% vì nguy cơ lúc pha trộn 14% vì giá cả 49% không chích 50% những người được hỏi không chích thuốc sau vài tuần là 7%. Việc dùng kháng sinh trong tiền phòng đã tăng lên (50% so với năm 2007 chỉ có 3%). Trong số các hội viên được hỏi thì tỷ lệ thuốc được chích trực tiếp hiện nay là 84% so với 50% năm 2007. Việc lựa chọn thuốc kháng sinh để chích vào tiền phòng cũng đã thay đổi, moxifloxacin được dùng là 33%, vancomycine 37% và cefuroxime. Đối với phẫu thuật viên hoa kỳ thì cũng thuốc này moxifloxacin31%, vancomycine 52% và cefuroxime 14%. Ở cuối kỳ phẫu thuật thì 36% các hội viên đã chích kháng sinh trực tiếp vào tiền phòng và 14% vào năm 2007. Sự khác biệt về vấn đề địa lý là 70% ở Châu Âu chích kháng sinh vào tiền phòng và Hoa Kỳ là 30%. Đối với kháng sinh được dùng: 5% apeokarn, 6% tự pha, 65% y tá phòng mổ pha, 24% bệnh viện pha, 9% tiệm thuốc ở bệnh viện pha. Tổng cộng 47% hội viên khác cho biết sẵn sàng hay dự định chích kháng sinh vào tiền phòng trong khoảng 6 tháng tới (hình 3). Vậy đâu là lý do mà 53% không muốn chích kháng sinh vào tiền phòng giá cả khoảng 19%, thiếu những chứng cứ thuyết phục 65% và 49% lo sợ vì các nguy cơ khi pha thuốc. Trong số các hội viên không chích kháng sinh năm 2007 thì những lý do này lần lượt là 17%, 89% và 45%.

15

16

Về câu hỏi việc chích kháng sinh vào trong tiền phòng quan trọng như thế nào? 14% cho là không cần thiết, 41% cho cũng quan trọng và 26% là rất quan trọng và các phương pháp khác cũng đủ để ngăn ngừa. Với câu hỏi liệu có quan trọng khi có 1 loại thuốc kháng sinh đã được chấp thuận bán ở bên ngoài để chích trực tiếp vào tiền phòng thì 75% nói có, 91% không và 16% không chắc chắn lắm. Điều này có sự khác biệt rất lớn khi năm 2007 đặt ra câu hỏi này thì câu trả lời tỷ lệ lần lượt là 54% nói có, 11% nói không và 35% không chắc chắn. Để kết luận, đã có khuynh hướng rõ ràng về việc dùng kháng sinh chích vào trong tiền phòng bởi có hội viên hoa kỳ từ năm 2007 đa số là muốn chích trực tiếp vào tiền phòng và 1 số nhỏ thì cho kháng sinh vào trong dung dịch truyền. Chích trực tiếp vào trong tiền phòng ở cuối phẫu thuật đã tăng từ

15% vào năm 2007 đến 36% đến năm 2014. Hình như khoảng 1 nửa các hội viên được hỏi không chích kháng sinh vào trong tiền phòng vì sợ nguy cơ sai lệch lúc pha thuốc do thuốc không được bán ở ngoài thương mại. Tỷ lệ các hội viên cho rằng điều quan trọng là phải có những đơn vị thuốc kháng sinh được bán ở ngoài thương mại để chích vào trong tiền phòng tăng từ 54% (năm 2007) đến 75% và khoảng 7/10 người họ sẽ dùng những thuốc bán ở thương mại như aprokam nếu được bán. Rõ ràng là các hội viên muốn có 1 thứ thuốc kháng sinh được chích ở trong tiền phòng được bán ở Hoa Kỳ. Chúng tôi đang trong tiến trình ứng dụng những kết quả điều tra này với kỷ nghệ dược phẩm và chấp thuận của FDA để các hội viên có phương tiện ngăn ngừa viêm mủ nội nhãn khi mổ đục thủy tinh thể. Lược dịch bác sĩ Nguyễn Cường Nam

LOẠI KHÁNG SINH NÀO CHÍCH VÀO TIỀN PHÒNG TỐT NHẤT Tác giả: Lauren Lipuma phóng viên báo EyeWorld viết theo tài liệu của các chuyên gia Eye World tháng 3/2015 trang 14 Các phẫu thuật viên có kinh nghiệm khuẩn vẫn phát triển do việc bệnh nhân bàn về các lợi điểm và khuyết điểm của các không tuân thủ hoặc do thuốc nhỏ đắt tiền. loại thuốc. Những kháng sinh chích vào tiền theo bác sĩ Jeffrey Liegner, trung tâm nhãn phòng có lẽ là phương pháp chống khuẩn khoa Sparta, Nj, Hoa Kỳ để giảm nhẹ gánh hữu hiệu hơn là việc nhỏ povidone odine. nặng do việc nhỏ thuốc cho bệnh nhân, thì Theo bác sĩ Bonnic An Henderson giáo sư việc chích kháng sinh trực tiếp vào trong tiền đại học Tufts, Boston, Hoa Kỳ thì nghiên cứu phòng đã có tầm quan trọng đặc biệt. Việc của ESCRS được công bố vào năm 2006 đã dùng kháng sinh chích vào trong tiền phòng chứng tỏ sự hữu hiệu của việc chích vẫn đang được bàn cải ở Hoa Kỳ thì không cefuroxime vào tiền phòng, đã hạ thấp tỷ lệ có 1 loại thuốc nào đã có sẵn bán ngoài thị nhiễm trùng sau mổ đục thủy tinh thể. Một số trường được chấp thuận bởi FDA. Để có 1 các tư liệu khác cho rằng chích kháng sinh loại thuốc kháng sinh thích hợp chích vào vào trong tiền phòng thì hữu hiệu hơn nhỏ trong mắt, thì thuốc này phải được pha chế kháng sinh để ngăn ngừa viêm mủ nội nhãn. bởi những dược sĩ hay các phẫu thuật viên Hiệu quả của việc chích kháng sinh vào tiền trong phòng mổ. Điều này đã gây trở ngại phòng hơn nhỏ thuốc có thể là do việc tuân cho các phẫu thuật viên vì sự sai lầm về nồng thủ nhỏ thuốc của bệnh nhân. Vì thuốc nhỏ độ có thể gây những biến chứng như phù bệnh nhân không sử dụng chính xác, nên rất hoàng điểm dạng nang, hội chứng nhiễm độc nhiều bệnh mặc dù là hiếm nhưng rất nhiều tiền phòng..v.v…. Santen hân hạnh tài trợ

16

17

Tuy nhiên rất nhiều các bác sĩ Hoa Kỳ bán phần trước lựa chọn; Nhưng 2 loại thuốc đã khắc phục được trở ngại trong việc pha mới đã có sẵn trong năm nay đã giải quyết thuốc bằng cách dùng thuốc kháng sinh chích được vấn đề pha thuốc và lót đường cho việc vào tiền phòng thường xuyên như: không dùng thuốc nhỏ trong phẫu thuật đục moxiflaxacin, vancomyxin, cefuroxime là thủy tinh thể. những thuốc đầu tay mà các phẫu thuật viên I. Vigamox, cefuroxime, vancomyxin Thuốc kháng sinh lý tưởng chích vào 3. Cefuroxime là loại cephalosporin trong tiền phòng phải có 1 phổ diệt khuẩn thế hệ 2 đã có tác động chống khuẩn gram rộng, nồng độ ngăn chặn tối thiểu thấp (MIC) dương rất tốt nhưng đối với với khuẩn gram và đời sống bán hủy trong tiền phòng dài. âm thì ở mức trung bình. Thuốc đã được Theo bác sĩ Abhay Vasavada ở Ấn Độ nghiên cứu để chích vào tiền phòng nhưng thuốc kháng sinh chích tiền phòng cũng phải đòi hỏi phải tiến trình pha thuốc qua 2 bước, an toàn cho biểu mô giác mạc và hoàng từ đó dễ gây lẫn lộn theo bác sĩ Liegner thì điểm, ngoài ra cũng phải dễ sử dụng. Với vancomyxin và Cefuroxime là những thuốc những tiêu chuẩn này thì theo tác giả thuốc rất tốt nhưng 1 lọ thuốc chỉ dùng 1 lần và tốt nhất được chọn là vigamox. phẫu thuật viên phải bỏ phần còn lại, do đó 1. Vigamox là loại thuốc không có không những gây tốn phí mà có khả năng tạo chứa chất bảo quản cho phép ta chích trực ra sự lờn thuốc. tiếp vào trong mắt. Thuốc không cần phải Với 3 loại thuốc trên, bác sĩ Liegner pha loãng do đó tránh được việc liều lượng nghĩ vancomyxin là thuốc tốt nhất cho các không thích hợp. Ngoài ra với cùng lọ thuốc phẫu thuật viên Hoa Kỳ. Nhiễm trùng đe dọa này có thể được dùng trước mổ, trong lúc mổ nhất là do từ khuẩn gram dương mà và sau mổ. vancomyxin lại là kháng sinh vua để chống Vigamox là loại fluoroquinolone thế hệ khuẩn gram dương rất an toàn và hữu hiệu. 4 đã có phổ diệt khuẩn rất rộng và rất dễ Tuy nhiên khuyết điểm là thuốc chỉ dùng có dung nạp ở trong mắt. Khuyết điểm của 1 lần vì độ bền của thuốc không được lâu. vigamox là giá thành hơi cao. Các dược sĩ pha thuốc có thể pha để dùng 1 2. Vancomyxin: Bác sĩ Henderson vẫn lần nhưng rất nhiều dược sĩ không có các thường dùng vancomyxin ở trong phòng công thức chính xác để chích trong tiền mạch nhưng vẫn chích vigamox nếu giá cả phòng được an toàn. không thành vấn đề. Vancomyxin hữu hiệu đối với khuẩn gram dương. II. Cuộc cách mạng trong phẫu thuật đục thủy tinh thể không dùng thuốc nhỏ. Công ty dược phẩm Imprimis San đã đặt thủy tinh thể vào trong bao, kỷ thuật Diego đã đưa ra 2 loại thuốc kháng sinh để này tốt hơn chích vào tiền phòng vì sự nhiễm dùng trong phẫu thuật ở mắt vào năm 2014 trùng ở trong mắt bắt đầu là trong thể kính đó là chứ không phải từ tiền phòng. Nhiễm khuẩn 1. Trimoxi là 1 hỗn hợp của xảy ra trong phẫu thuật thì hầu hết là do moxiflaxacin và triamcinolone. khuẩn sống cộng sinh ở kết mạc hay ở mí và 2. Triamcivane cũng có vancomyxin khuẩn tích tụ ở trong thể kính do sự dẫn dịch thuốc chỉ dùng có 1 lần để chích vào trong lúc mổ. Thể kính là 1 chất nền protein chứa mắt. 2 loại thuốc này được chích vào trong rất nhiều chất dinh dưỡng từ đó khuẩn rất dễ thể kính qua dây treo với 1 cannula sau khi mọc và phát triển. Khi chích kháng sinh vào Santen hân hạnh tài trợ

17

18

thể kính tức là tấn công trực tiếp vào các và không gây phù hoàng điểm dạng nang sau khuẩn từ đó tránh được nhiễm trùng. Ngoài phẫu thuật bởi sự kết hợp kháng sinh với việc ngăn ngừa nhiễm khuẩn từ gốc, thuốc steriod trong cùng 1 lần chích, 95% bệnh cũng kiểm soát được nhiễm trùng hậu phẫu nhân không cần dùng thuốc nhỏ hậu phẫu . Tóm lược 1. Pha thuốc trong lúc mổ là 1 trở ngại lớn trong việc chích kháng sinh tiền phòng. 2. Vancomyxin là thuốc hữu hiệu nhất trong việc chứa nhiễm trùng gram dương như MRSA. 3. Các hỗn hợp thuốc kháng sinh steroid mới trong năm nay được dùng trong 1 lần chích duy nhất đã làm cho việc phẫu thuật mổ đục thủy tinh thể lần đầu tiên không dùng thuốc nhỏ.

Duong Dieu, MD PhD, Nguyen Tat Thanh University HCM City

Introduction: Bell’s palsy or idiopathic facial paralysis affects yearly about 40,000 people in the United States and it affects approximately 1 person in 65 during a lifetime. Its cause was unknown in most cases, but until recently, it has now been related to both Lyme disease and Herpes simplex. Simplex can follow multiple nerve branches, while zoster tends to follow a single nerve branch, such as the first division of the fifth cranial nerve. Herpes Zoster Ophthalmicus (HZO) is caused by the varicella-zoster virus. HZO is an ocular disease which usually manifests as a unilateral painful skin rash in a dermatomal

Santen hân hạnh tài trợ

distribution of the trigeminal nerve shared by the eye and ocular adnexa. HZO occurs typically in older adults but can present at any age. It occurs after reactivation of latent varicella-zoster virus (VZV) present within the sensory spinal or cerebral ganglia [1]. It may travel along neurons to the sensory axons of the skin to form vesicular lesions. The herpes simplex virus, which causes cold sores and genital herpes, is commonly found in people afflicted with Bell's palsy. This paper some consideration on HZO with Bell’s paralysis were reviewed. All of these cases were monitored by medical treatment.

18

19

CASES REPORT: 1. Bell’s paralysis Case Report: Case 1: A 60-year-old woman who had no significant past medical history presented with a 3 years long history as follow: The first time was a previous 3 year ago, she had sudden onset of peripheral left facial weakness. It was to droop and it was hard for her to close her left eye. She also had difficulty in swallowing, drooling, excessive tearing. About 1 month later without treatment, all symtoms disappeared progressively. The second time was a previous 11 months, she relapsed of the left peripheral facial weakness. Bell's palsy reappeared when she waked up, she did not closed her left eyes and had loss of her taste sensation. During about three to four weeks of treatment at a private GP with unknown drugs, she experienced steady progressive. One week prior to author’ s eye clinic admission she had 3rd recurrence of Bell's palsy.

At eye clinic : Ocular examination revealed the following: visual acuity 20/20 both eyes, intraocular pressure 18mmHg OD, 20mmHg OS. The upper lid of left eye caused upper eyelid to shorten and thus exposed 2/3 of the cornea and part of ocular conjunctiva. There was negative with fluorescein on cornea. The anterior chamber was clear. Fuduscopy: Normal Laboratory finding included: RBC=3,900,000/mm3 WBC=7,600/mm3. HIV=Negative. Normal chest X-ray and ECG Diagnoses: 3rd recurrent Bell's palsy. VA both eyes=6/6. IOP=18mmHg. Funduscopy=Normal. Treatment: Steroids : prednisolone doses [7] for 3 weeks + acyclovir 800mg for 6 monhts Her appearance look like normal at 3 weeks and one year later (Fig bottom of the paper )

Case 2: A 96-year-old man suffered from corneal ulcere on left eye with a long time of lagophthalmia after facial paralysis. He had a previous 25 years for Bell’s palsy. He did not take any treatment. His Bell's palsy did not recover. He is a vetagian when he grown up. On eye examination: RE=VA =6/12.No anormal detected. LE= an irregular round corneal ulcere with 5mm in diameter cover subtotal cornea and fluorescein was positive. VA= Light Perception (+/-). IOP=15mmHg. Anterior chamber did not observed. PCR herpes (+). HIV=Negative. Treatment: Natural tear and pommade antibiotique for 1 week.

Santen hân hạnh tài trợ

Corneal ulcere did not developed and corneal ulcere becomes corneal scar but VA was the same on clinic admission. (Fig bottom of the paper ) Discussion Bell's palsy (facial paralysis) is characterized by facial drooping on the affected half, due to malfunction of the facial nerve (VII cranial nerve), which controls the muscles of the face. Named after Scottish anatomist Charles Bell, who first described it, Bell's palsy is the most common acute mononeuropathy (disease involving only one nerve), and is the most common cause of acute facial nerve paralysis. The paralysis is of the infranuclear/lower motor neuron type.

19

20

Most people with Bell's palsy will recover was be used, along with an antiviral fully in time, even without treatment, but medication such as acyclovir or valacyclovir current treatments reflect the belief that viral if a viral infection was suspected. According inflammation of the seventh cranial nerve to the Mayo Clinic, evidence from clinical causes the compression and resulting trials shows that treatment with steroids tends paralysis. For the inflammation and swelling to be more successful than treatment with of the nerve, corticosteroid like prednisone antivirals. 1.Herpes Zoster Ophthalmicus (HZO) and HIV but in the atypical case is difficult and now Ophthalmic Zona and HIV In Kenya a study of Haroon Awan, Henry with polymerase chain reaction (PCR) is a Alada showed 98% of AIDS patients having gold standard in diagnosis DNA of zona ocular manifestations and 23 % of virus. The general practitioners, eye doctors ophthalmic zona with HIV (+) in the age should be cautious in atypical cases of zona, range 8 to 47 years old. Our case 1 and 2 is as well as particularly in the phrase of preout of this age group. Ophthalmic zona may eruption of vesicles because of transmission be a marker for AIDS [2,3]. Diagnosis of both zona and HIV. In the author’unit, the 2 typical zona is usually easy with the eruption patient were HIV negative. of vesicles distributed along trigeminal nerve 2. Lagophthalmia: Lagophthalmia caused by with paralysis of as necrosis retinitis, secondary glaucoma, peripheral VII nerve for contricted muscles ocular motor nerve palsies, cataract, and of upper lid and without paralysis of elevator scleritis [5]. In case 2 with lagophthalmia a muscle in case 1. In case 1 which was long time, this resulted in severe corneal relapsed 3 times : Antiviral drugs were taken ulceration. After treatment, corneal and associated with steriods may be helful in ulceration became big scar that should be relief all symtom in swallowing as well as done a perforated corneal grafting.[4,5]. eye lid closing. Partial tarsography should be done first in Lagophthalmia due to adherent scar and order to decrease the evaporating of eye contracted scar of upper eyelid caused by watering contributed the regulation of herpes zoster is rarely seen but this condition pressure of eye liquefilm in case 2. Upper lid needs to treat early for protective vision. reconstruction should be done later.[6]. Lagophthalmia caused around of all cases of Antiviral drugs were were prohibitively 40% keratitis, 40% of uveitis cases, as well expensive and did not used in this case .Classification and treatment of herpetic neuralgia:[7] Acute herpetic neuralgia (AHN) * AHN < 3 months * prodrome  vesicles * phrase of recovery Treatment: AHN 1. Antiviral drugs: Acyclovir…7days 2. Prednisolone 40mg/daily/2 weeks 3. Analgesics: narcotic & non narcotic 4. Block sympathetic drugs Santen hân hạnh tài trợ

Post herpetic zoster neuralgia (PHN) * PHN: > 3 months * during: > 3 months to years * Intermittent  stop PHN 1. Antidepressive drug: Imipramine 2. Aspirine, Capseine 3. Physiotherapy 4. Anticonvulsive drugs: Carbamazepine 20

21

Here is a treatment for fast relief of symptoms. STEPS 1. Use Lacrilube (found at any drug stores or pharmacy) to help keep eye moisturized. 2. Eat garlic with olive oil (mash the garlic and mix it with the olive oil). 3. Use multivitamin complex with B vitamins (B1,B2,B6,B12). 4. Try to avoid milk. 5. Do a deep massage to the face. 6. Avoid exposure to the wind. 3. Others problems with ophthalmic zona * Strabismus: may be caused by the paralysis of ocular muscles need to be surgical correction [8]. * Cornea: The decreasing of corneal sensibility post herpetic zoster may reversible or irreversible because of corneal epithelial damages.[6]. Surgeries in these patients as glaucoma, cataract has to be warning.

7. Exercise the facial muscles daily (smile, lift your eyebrow, try to whistle, close your eyes etc.). 8. Smile and pull infected side of face up to a normal smile and hold for 10 seconds. Repeat. 9. Put a heating pad on low and put it on infected side of face. Hold for 3 minutes then rest it for 3 min. Repeat. 10. Drink plenty of water. 11. Try acupuncture treatment (start with twice a week). * Iris: The paralysis of constricted sphincter of iris may lead to dilation of pupil so-called atypical Argyl Robertson syndrome [4]. This case : pupil did not constrict one year later. 4. Bell’s Palsy with genetic problem: should be detected but in 2 cases mentioned aboved did not showed relationship [9]

Conclusion: In our experience, steroids associated with antiviral drugs were more effective in case 1 with restored lagophthalmia and good vision as well as some satisfying results were reported here after one year follow-up. In case 2: a corneal ulcere due to complicated

Bell’s palsy, a tarsography should be performed first as temporary treatment for preventing corneal perforated before corneal graft. Some considerations on lagophthalmia were discussed in this paper for General Practitioners and Eye Doctors.

Key words: Bell’ lagophthalmia, Adherence lagophthalmia, Bell’ paralysis, symptoms and treatment. References: 1. Liesegang TJ. Herpes Zoster Ophthalmicus. Ophthalmology 2008;115:S3-S12. 2. Haroon R Awan, Henry S Alada, Ophthalmic manifestation of AIDS in Kenya, Ophthalmic Practice, Asian Edition 1996, 2(3):92-101. 3. Philippe Kestelyn, Susan Lewallen, Ocular problems with HIV infection and AIDS in Africa, Community Eye Health 1995, 8(6):12-14. 4. Henry Saraux, Ophtalmologie, Masson, Paris 1988:481-483. 5. Sir Stephen Miller, Clinical Ophthalmology, Wright Bristol 1987:139,172-194. 6. Duong Dieu, Upper Eyelid Reconstruction, Medical Progress, MediMedia Publisher 2001, 28(6): 26-28. Santen hân hạnh tài trợ

21

22

7. R.H.Acland, Herpes zoster and post herpetic neuralgia, Medical Progress 1996, 23(1):3840. 8. Duong Dieu, Surgical correction of esotropia and exotropia, Ophthalmic Practice, Canada edition 1998, 16(2): 84-86. 9. http://www.pubfacts.com/detail/22934210/Familial-Bells-Palsy:-A-Case-Report-andLiterature-Review.

Case 1 (left fig.) and case 2 (right fig.)

BỆNH NHÂN NAM KHỎE MẠNH BỊ MẤT THỊ LỰC ĐỘT NGỘT Tác giả: Zachary Goldstein và cộng sự đại học Indiana, Hoa Kỳ. Eye net tháng 1/2015 trang 49 – 50 I. Lý do nhập viện Bệnh nhân nam 33 tuổi sau khi thức dậy, bệnh nhân chỉ nhìn thấy được dáng, bóng mờ và xin nhập viện.

Santen hân hạnh tài trợ

22

23

II. Khám nghiệm - Thị lực: MP: 20/200; MT: 20/20 - Nhãn áp: MP: 13 mmHg; MT: 14 mmHg - Đồng tử: tròn đều, kích thước 40 mm, phản xạ tốt nhưng MP phản xạ kém hơn. - Khám nghiệm mắt: không xụp mí hoặc co mí. - Chuyển động mắt: tốt, không đau. - Tiền phòng: bình thường. - Tiền căn đáy mắt: không có gì đáng chú ý. - Tiền căn nội khoa về gia đình: không có gì đáng chú ý. Bệnh nhân thỉnh thoảng có uống rượu nhưng không hút thuốc. - Khám đáy mắt: MP có 1 vùng nổi cao tròn ở phía thái dương của gai thị làm mờ gai thị bị mờ (hình 1). III. Chẩn đoán phân biệt: Ở bệnh nhân trẻ khỏe mạnh bị giảm thị lực ở 1 bên mắt, bị phù gai thị không nhức đầu, không đau, chuyển động mắt bình thường thì chẩn đoán phân biệt gồm: 1 tiến trình viêm và thấm nhập như bệnh lao, bệnh lyme, bệnh mèo cào, bệnh lupus và sarcoidosis; viêm thị thần kinh có liên quan đến cơ cứng rải rác và tăng áp lực sọ não ít nghĩ đến vì thiếu những triệu chứng lâm sàng cũng như bản chất phù gai thị ở từng khu khi hỏi kỷ hơn bệnh nhân cho biết có nuôi 1 con IV. Kết quả xét nghiệm và điều trị 5 ngày sau thử nghiệm bartonella henselae dương tính 1: 256 trong khi đó bartonella henselae âm tính kết quả này cho thấy bệnh nhân đã bị nhiễm trùng bởi tác nhân này. Thử nghiệm lyme âm tính cũng như các thử nghiệm ANA, ACE VÀ PPD. Vận tốc lắng hồng cầu hơi cao 30 mmHg/ 1 giờ. Chẩn đoán âm tính dựa vào kết quả trên là do bệnh mèo cào. Mặc dù, bệnh nhân không có dấu chủ. Bệnh là tiết chất viêm hình sao ở hoàng điểm bệnh nhân được chữa trị với doxycyline 100 mg 2 lần/ 1 ngày.

Phù gai 1 khu phía thái dương Phù lan rộng từ phía thái dương của gai thị đến hoàng điểm, những mạch máu và vùng ngoại bình thường. MT: bình thường. mèo và trước đây cũng bị mèo cào. Chúng tôi quyết định làm 1 số các thử nghiệm như vận tốc lắng máu hồng cầu (ESR) thử nghiệm bartonella về bệnh mèo cào, thử nghiệm bệnh lyme, thử nghiệm kháng thể chống nhân antinuclear antibodies (ANA), thử nghiệm ACE để tìm sarcoidosis và PPD. Mặc dù, bệnh nhân cũng được chụp MRI nhưng chúng tôi hy vọng rằng các thử nghiệm của phòng xét nghiệm là đủ.

1 tuần sau khi khám nghiệm Santen hân hạnh tài trợ

23

24

Bệnh nhân được cho xuất viện và tái khám vào tuần sau thì thị lực MP 20/100. Những dấu hiệu khác đều bình thường trừ viêm bờ mi nhẹ ở 2 mắt và phù gai ở phía thái dương, MP 2+. Khám nghiệm cũng thấy phù hoàng điểm và hố hoàng điểm về bệnh gai thị (hình 2). Dữ kiện phù hoàng điểm mới này cùng với kết quả ở phòng xét nghiệm đã xác nhận chẩn đoán ban đầu của chúng tôi là viêm thị thần kinh võng mạc do nhiễm bartonella V. Bàn luận Bartonella henselae cùng với bartonella clarridgeiae là 1 trong 2 vi khuẩn chủ yếu gây bệnh mèo cào. Mèo nuôi là giới chủ chính, con ve của mèo là yếu tố truyền bệnh. Bartonella henselae phối hợp với viêm thị thần kinh võng mạc do nhiễm khuẩn. 1 vài nghiên cứu đã cho thấy 71% bị bệnh mèo cào thì bị viêm thị thần kinh võng mạc. Dấu hiệu chính của bartonella henselae là tích tụ lipip của hoàng điểm hình sao tuy nhiên điều này không phải luôn luôn thấy đặc biệt là ở giai đoạn sớm của bệnh, tuy nhiên nó có thể xảy ra trong tiến trình muộn của bệnh. Dấu hiệu tiêu chuẩn là phù gai thị ở mắt, không đau gây mất thị lực của bệnh nhân trẻ. Thị trường ở trung tâm và cạnh tâm bị khiếm khuyết, phản xạ đồng tử yếu, viêm võng mạc thị thần kinh do bartonella henselae thường tự giới hạn nhưng có thể dùng kháng sinh thêm, đặc biệt là những trường hợp nặng. Chủ yếu dùng doxycyline hay erythromycin. VI. Kết luận Bệnh mèo cào nên được lưu ý ở bệnh nhân bị phù gai và mất thị lực bất kể là có tiết chất hình sao ở hoàng điểm hay không.

Santen hân hạnh tài trợ

henselae thứ phát do mèo cào. Vì phù không được cải thiện bệnh nhân được cho uống thêm ciprolfoxacin 500 mg 2 lần/ 1 ngày. Tái khám 2 tháng sau thấy phù gai thị đã hết và có 1 sẹo nhỏ ở phía thái dương của gai thị và phù hoàng điểm cải thiện rõ rệt thị lực cũng đã tăng dần lên 20/30. Bệnh nhân được ngưng cho uống kháng sinh và tái khám sau 3 tháng nhưng bệnh nhân đã không trở lại.

Mặc dù bệnh nhân đã có những dấu hiệu chung ở mắt của nhiễm bartonella henselae nhưng mất thị lực 1 mắt bất thần và phù gai thị cũng được thấy. Bệnh nhân đã không có xuất tiết hình sao ở hoàng điểm ở lần khám đầu tiên. Bệnh nhân không có những triệu chứng toàn thân như có hạch, sốt, mệt mỏi, thường có trước hay kèm theo những biểu chứng ở mắt. Khi không thấy những đặc điểm này mà chỉ căn cứ vào sự hiện diện của phù gai thị ở phía thái dương ở từng vùng nhất là ở bệnh nhân trẻ thì chúng tôi nghĩ đến 1 số những bệnh khác để làm chẩn đoán phân biệt với phù gai thị. Vì bartonella henselae là 1 thành phần quan trọng trong chẩn đoán phân biệt phù gai thị 1 bên mắt. Lúc đó bệnh nhân cần được hỏi kỷ càng về việc tiếp cận vật nuôi trong nhà. Cần phải làm xét nghiệm tìm khám thể bartonella henselae để chẩn đoán bệnh mèo cào là 1 trong những chẩn đoán phân biệt.

24

25

Dương Diệu, MD PhD- Nguyễn Tât Thành University-HCM City Cận thị là một trong những than phiền phổ biến nhất trong chúng ta - nhưng chúng ta đã hiểu lầm một cách cơ bản nguồn gốc của nó và điều trị của nó? David Robson đã có một câu trả lời. Khi tôi còn là một thiếu niên, thị lực của tôi gen đã qua nhiều thiên niên kỷ bất kể gene giảm từ từ và tôi đã phải đeo kính. Những gì này rõ ràng là 1 nhược điểm. bắt đầu là sớm tiếp cận với đôi kính. "Tại sao Trong thực tế, những kinh nghiệm của người điều này xảy ra?" Tôi muốn hỏi bác sĩ nhãn Inuit ở Canada nên đã giải quyết câu hỏi mà khoa khi tôi được đo thị lực và nhìn các hình gần 50 năm trước đây Trong khi thế hệ người bị mờ và bác sĩ đã kê đơn kính cho tôi. Giải cha mẹ gần như không có người cận thị thì thích của bác sĩ luôn luôn giống nhau: Tôi có khoảng 10-20% con cái họ phải đeo kính. thể mờ do gene và đọc sách quá nhiều. “Sẽ không bao giờ có thể nói đó là bệnh di Một mối quan tâm chung là kính có làm truyền,” bà Nina Jacobsen ở Bệnh viện những điều tồi tệ hơn cho mắt - câu trả lời Trường Đại Học Glostrup ở Copenhagen nói. Ian Flitcroft, bác sĩ phẫu thuật mắt là không Trong cùng thời gian đó, người Inuit đã bắt có. đầu rời khỏi lối sống truyền thống săn bắn và Tôi không có lý do gì để nghi ngờ ông ta. Có đánh bắt của họ sang một cuộc sống phong thể là những gì bác sĩ nhãn khoa của bạn nói cách phương Tây hơn - một nguyên nhân với bạn, cũng vậy, nếu bạn đã được chẩn nhiều khả năng suy giảm thị lực của họ. đoán là cận thị. Nhưng một nghiên cứu gần "Cận thị là một bệnh do công nghiệp hóa", đây cho thấy những giả định này là hoàn toàn Ian Flitcroft nói tại Bệnh viện Đại học của trẻ sai lầm. em, Dublin. Gen cận thị của chúng ta vẫn có Môi trường hiện đại có thể dẫn đến thị lực thể đóng một vai trò trong việc quyết định ai kém. Và, chỉ với một vài biện pháp đơn giản, sẽ trở thành cận thị, nhưng nó chỉ là thông con cái chúng ta có thể ngăn được sự suy qua một sự thay đổi trong môi trường do đó giảm thị lực. các vấn đề mới bắt đầu xuất hiện. Ý tưởng cho rằng thị lực kém là chủ yếu di Một phần của sự thay đổi đó là việc học tập truyền đã không bao giờ thực sự đúng cho và đọc viết, đó là một trong những giải thích tôi, dù sao. Nếu tôi không đeo kính, tôi thật chung nhất cho bệnh cận thị. sự không thể phân biệt được một tảng đá với Thoạt đầu thì bằng chứng có vẻ hiển nhiên: một con tê giác. Vì vậy, đã cho là gene di chỉ cần nhìn thấy vô vàn mắt kính lấp lánh tại truyền và họ phải nheo mắt chịu đựng? bất cứ trường đại học nào, buổi thuyết trình Tuy nhiên, cận thị trở thành một dịch bệnh; nào, nhà hát nào hoặc hội nghị hàn lâm nào, 30-40% người ở châu Âu và Mỹ cần kính, và thì bạn thấy hình như đã tìm thấy bằng chứng con số này đã tăng lên đến 90% ở một số của mối liên kết. nước châu Á. Nếu chúng tôi đã có "cận" do

Santen hân hạnh tài trợ

25

26

Ấy vậy mà các nghiên cứu dịch tễ học cho thấy tác động lại nhỏ hơn ta tưởng nhiều. “Chúng ta càng nghiên cứu nó và càng đo đếm số người đọc sách thì sự liên kết lại càng biến mất, (nghĩa là nghiên cứu với số mẫu càng lớn thì thấy không có mối liên hệ giữa đọc sách với cận thị)” Flitcroft nói. Một nghiên cứu quy mô lớn theo dõi sự tiến triển của trẻ em ở Ohio cho thấy không có sự tương quan nào hết với việc đọc sách, tuy rằng ta chưa nên loại bỏ hoàn toàn tác động này, Jacobsen nói. Thay vì ý kiến trên, nay rất nhiều người lập luận rằng chính là thời gian ở trong nhà, chứ không phải bản chất việc đọc, mới là yếu tố quyết định. Sau nhiều nghiên cứu, từ Châu Âu, Châu Úc và Châu Á, mọi người đều thấy rằng những người có nhiều thời gian sống ngoài trời thì ít bị cận thị hơn rất nhiều so với những người có cuộc sống chủ yếu trong bốn bức tường. Tại sao lại có thể như vậy? Sự giải thích được nhiều người chấp nhận nhất là ánh sáng mặt trời bằng cách nào đó đã nuôi dưỡng mắt. Thí dụ: ông Scott Read ở Đại học Kỹ thuật Queensland gần đây có trang bị cho một nhóm các học sinh một đồng hồ đặc biệt, nó

ghi chép di chuyển toàn diện của học sinh và cường độ ánh sáng, cứ 30 giây một lần, trong vòng hai tuần. Những học sinh có thị lực tốt hóa ra lại là không hoạt động tích cực hơn các học sinh đeo kính, như vậy loại bỏ khả năng cho rằng sự rèn luyện chân tay và việc có sưc khỏe tốt đã bảo vệ mắt. Thay vì thế, việc phải đeo kính hay không có vẻ như chỉ phụ thuộc vào thời gian sinh hoạt ngoài trời. Ánh sáng mặt trời khi nắng có thể có cường độ lớn hơn hàng nghìn lần so với ánh sáng trong nhà (mặc dù mắt bạn không nhận thấy sự khác biệt đó), và trẻ em nào được hưởng càng nhiều ánh sáng mặt trời thì chúng càng ít cần dùng kính. Có thể là vì ánh sáng mặt trời kích thích việc sản sinh ra Vitamin D, là thứ vitamin giúp bảo vệ hệ miễn dịch và não bộ, và có thể cũng điều hòa sự lành mạnh cho mắt.Một ý kiến được nhiều người chấp nhận hơn là ánh sáng mặt trời kích hoạt việc tiết ra chất dopamine trực tiếp vào mắt. Bệnh cận thị là do sự phát triển to hơn lên của cầu mắt, nó làm cho thủy tinh thể khó hội tụ hơn một hình ảnh vào võng mạc, nhưng chất dopamine hình như kìm hãm quá trình to lên này và làm cầu mắt có kích thước lành mạnh hơn.

Nhận được ánh sáng xanh Một vấn đề khác nữa, có thể là vấn đề mầu sắc. Bước sóng của ánh sáng mầu xanh lục và xanh lam có khuynh hướng hội tụ về phía trước võng mạc, còn ánh sáng đỏ chiếu vào phía sau. Do ánh sáng trong nhà có khuynh hướng đỏ hơn tia nắng mặt trời nên sự không khớp nói trên có thể gây nhầm lẫn cho các cơ chế điều khiển cầu mắt. “Nó làm cho mắt tưởng rằng đã không hội tụ đúng chỗ và do vậy mắt phải to lên để bù trừ vào cái sai đó,” Chi Luu ở Đại học Melbourne nói. Ông đã quan sát thấy rằng các con gà thức giấc vào lúc ánh sáng đỏ thì dễ bị cận thị hơn Santen hân hạnh tài trợ

các con gà sống trong vùng phụ cận có mầu xanh lục và xanh lam. Trong khi đó, Flitcroft cho rằng vấn đề là ở sự sắp xếp các vật thể trước tầm nhìn của bạn. Hãy nhìn xung quanh bạn và bạn sẽ hiểu ông ta muốn nói gì. “Nếu bạn nhìn vào màn hình máy laptop thì mọi thứ sau màn hình là ngoài tầm hội tụ rất nhiều,” ông nói. “Và nếu bạn ngước lên, nhìn từ máy laptop lên chiếc đồng hồ treo tường, bạn đã có một bước chuyển đổi lớn, lúc này đồng hồ nằm trong hội tụ, và nó khiến nhiều vật thể ở sát xung quanh bạn bị mờ đi.”

26

27

Dù bạn tập trung vào nhìn chỗ nào thì lúc nào cũng có một sự mờ nhạt xẩy ra với cơ chế phản hồi của mắt. Khi ở ngoài trời, vật thể có xu thế ở khoảng cách xa hơn, nó cho một hình ảnh rõ hơn và giúp điều hòa sự phát triển của mắt. Hy vọng rằng những điều hiểu biết thấu đáo như vậy không những chỉ có tầm quan trọng học thuật vì cuối cùng nó có thể giúp chúng ta tìm ra các cách điều trị mới.

Thí dụ ông Luu đang hy vọng xây dựng thử nghiệm dùng ánh sáng xanh cho trẻ em cận thị. Ông Luu không chỉ hy vọng nó làm chậm sự suy giảm thị lực; thực tế nó có thể đảo ngược quá trình. Khi nghiên cứu đối với gà, ông ta phát hiện rằng một vài giờ ánh sáng xanh đã chữa khỏi những hư hại do ánh sáng đỏ gây ra và hồi phục lại thị giác bình thường cho gà.

Ánh sáng xanh trên võng mạc Tổn thương quang hóa đối với võng mạc do cường độ ành sáng, phân bố quang phổ, thời gian và phơi nhiễm của các loại kính. Khi ánh sáng truyền qua mắt như phóng xạ vào võng mạc, cùng với những nguy cơ cá nhân (thuốc lá, dinh dưỡng..) và khả năng sự phục hồi của tế bào. Tích lũy và kéo dài phơi nhiễm ánh sánh xanh vừa phải có thể góp phần tổn thương quang hoá võng mạc. Ánh sáng xanh là ánh sáng có năng lượng cao nhất mà mắt nhìn thấy được 380-500nm. Mắt thường phơi nhiễm với ánh sáng xanh hàng ngày khi ở ngoài trời và và tạo nên nguồn ánh sáng nhân tạo mới. Kính mắt chọn lọc ánh sáng đặt biệt có lẽ góp phần có ý nghĩa vào việc che chở ánh sáng đến võng mạc và làm chậm quá trình lão hóa. Ảnh hưởng của hiệu quả NO của ánh sáng xanh tím trên mắt và thị giác. Hấp thu 1 photon trong quá trình quang hóa bởi tế bào sắc tố được biết trong chu kỳ quang tổng hợp tế bào sắc tố quang chuyển hóa all-trans retinal thành 11 cis retinal. Sự tích lũy và phơi nhiễm có thể biến đổi chu kỳ thị giác và làm võng mạc không hồi phục. All transretinal có thể tích lũy ở lớp ngoài tiếp nhận ánh sáng (TNSA). Phức hợp này thì nhạy cảm cao với ánh sánh xanh tím giảm đi ở 400-450 nm. Tác động của ánh sáng xanh này có thể gây ra stress oxydative bên trong lớp TNAS. Stress này là phản ứng bình thường của việc chống oxid hóa võng Santen hân hạnh tài trợ

mạc.Nhưng các yếu tố tuổi, bệnh tật, môi trường làm giảm phản ứng này. Tế bào biểu mô sắc tố võng mạc (TBBMSTVM) sẽ thực bào, tiêu hóa lớp ngoài TNAS là một thách thức vì màng ngoài náy khó phá vỡ. Nhưng có sự thực bào trong tế bào không hoàn toàn và tích lũy lipofuscin trong TBBMSTVM. Lipofuscin nhạy cảm với ánh sáng xanh. Hoạt hóa ánh sáng xanh tạo nên một oxygen đặc biệt. Khi tích lũy nhiều trong tế bào thì sẽ giảm khả năng đề kháng, làm TBBMSTVM mất chức năng và sẽ chết theo lập trình. Tổn thương các tế bào lân cận làm giảm tiếp nhân ánh sáng dẫn đến mất thị lực được chẩn đoán thoái hóa hoàng điểm tuổi già.(THHĐTG). Tích lũy lipofuscin ở BMSTVM là dấu hiệu chính trong THHĐTG. Tác hại độc của ánh sáng xanh trên VM đã được chứng minh trên mô hình động vật. Tuy nhiên các thử nghiệm này chưa chứng minh được tác hại theo các độ dài sóng của ánh sáng xanh. Tuy nhiên theo hiểu biết của chúng ta chưa có xác định được hệ thống chiếu sáng nào gây tổn hại để từng bước xác định được quang phổ gây độc. Mặt khác chiếu sáng không có tỷ lệ với ánh sáng mặt trời và trong hệ thống lọc của mắt.

27

28

Viện thị giác Paris và Essilor R&D đã liên kết chương trình nghiên cứu quang sinh học để xác định chính xác quang phổ gây độc cho VM do ánh sáng xanh và xanh lục –đỏ là nhóm chứng trong phơi nhiễm với ánh sáng mặt trời đối với võng mạc của THHĐTG. Kết quả là 40nm của ánh sáng xanh 415-455 nm có độ tác hại cao nhất. Hậu quả của ánh sáng xanh không làm tổn hại thị giác: Ánh sáng xanh và năng lượng của nó trong quang phổ màu xanh cần thiết xác định trong

tính sinh học và hiệu quả của nó. Anh sáng xanh 480nm (+/- 15nm) tác động dương tính trên photoreceptor thứ 3: melanopsin có trong tế bào hạch VM. Khi tế bào hạch VM gặp ánh sáng này nó truyền qua thị thần kinh đến não và một lọat các phản ứng tiếp theo ngoài thị giác như giấc ngủ, kích thích tố (như cortisone…) thân nhiệt, phản xạ ánh sáng với đồng tử, nhận biết hành vi và một số tiến trình sinh lý khác.

Phát hiện ngẫu nhiên Flitcroft chỉ rõ rằng đã có những thử nghiệm với kết quả khích lệ về kính áp tròng mà nó có thể làm giảm độ mờ ở vùng ngoại vi vùng hội tụ. Ông cũng lạc quan về một loại thuốc nhỏ mắt có tác dụng tích cực, thuốc atropine. Thuốc này từ lâu nay đã được biết là giúp làm chậm dấu hiệu kích thích sự phát triển nhãn cầu và bệnh cận thị. Những tác dụng phụ không tốt của nó như làm giãn đồng tử và tạo ra vầng hào quang xung quanh nguồn ánh sáng, do vậy nó đã thời gian không được sử dụng nữa. Nhưng với sự phát hiện ngẫu nhiên gần đây, người ta thấy rằng thuốc vẫn có tác dụng tương tự nếu ta chỉ dùng với 1/100 liều lượng ban đầu. Với liều lượng ít này, các tác dụng phụ sẽ giảm xuống nhiều, khiến cho loại thuốc nhỏ mắt này nay lại được quan tâm sử dụng. Tuy nhiên, ông Flitcroft nhấn mạnh là chúng ta nên thận trọng, không vội vàng có hành động ngay. Một trong những quan niệm sai cho rằng chính kính làm cho mắt kém đi, nhưng bằng chứng cho thấy lời khuyên đó nên được loại bỏ. Trải nghiệm của riêng tôi cho thấy điều nói trên là sự hiểu lầm đáng buồn, nó xuất phát từ cuốn sách gây nhiều tranh luận mang tên “Thị lực tốt hơn mà không cần dùng kính”, tôi đã quyết định

Santen hân hạnh tài trợ

không dùng kính với hy vọng bệnh sẽ khỏi; nhưng thay vì như thế bệnh cận thị của tôi đã tăng gấp đôi trong ba năm. “Một sự lo lắng chung là kính đang làm cho bệnh tồi tệ hơn, nhưng câu trả lời cho nó là không,” Flitcroft nói. “Nếu như bạn chắc chắn đang làm cho con cái bạn có thể nhìn rõ ràng thì bạn đã làm đúng.” Đối với những người mong muốn hành động ngay lúc này thì gần hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất rằng khuyến khích trẻ em chơi ngoài trời thì không có hại gì, và một thử nghiệm ở các trường học ở Đài Loan đã cho thấy là khá thành công. “Sống trong môi trường tự nhiên ngoài trời thì con người sẽ không bị cận thị,” Flitcroft nói. “Khuyến khích trẻ em dành nhiều thời gian ngoài trời chỉ có tác dụng tốt.” Ước gì tôi biết tất cả những điều trên khi còn là thanh niên. Giờ đây tôi mang kính áp tròng, nó hoàn toàn điều chỉnh thị lực của tôi, và việc thỉnh thoảng thấy khô mắt và ngứa chỉ là chuyện nhỏ so với cái sự thể lớn lao. Nhưng khi thức giấc và thậm chí không thể nhận ra người bạn đời nằm bên cạnh thì tôi không thể không hy vọng các thế hệ tương lai sẽ được thưởng thức sự nhìn hình ảnh trong như pha lê đã có từ thời bẩm sinh của tổ tiên chúng ta.

28

29

Tham khảo 1. David Robson , Why are we short-sighted? 2. Thierry Villette, Bluelight: the hazard and thr photoprotection challege-Báo cáo tại Hội nghị Asian Optometric Conference- Singapore 14/11/2014

1. Kính râm: - Ánh sáng phản xạ trong không khí đa số phân cực theo phương ngang. Ánh sáng chói nằm ngang đến từ ánh sáng mặt trời bị phản chiếu từ bề mặt nước, mặt đường, tuyết, mui xe ô tô, vv... - Tròng kính phân cực như một tấm rèm lá sách được định hướng sao cho những tia sáng thẳng đứng (phản chiếu từ mặt phẳng nằm ngang) được cản lại.

- Mối quan tâm hàng đầu của người mang kính mát là những tia chói được phản chiếu nằm ngang - Kính phân cực làm giảm cường độ sáng của ánh sáng tự nhiên và không cho ánh sáng phân cực theo phương vuông góc đi qua. Kính râm là kính phân cực thẳng đứng. Tác dụng của kính râm làm giảm cường độ ánh sáng tự nhiên và không cho ánh sáng phản xạ đi qua, giảm độ chói, không gây khó chịu cho mắt

.

Santen hân hạnh tài trợ

29

30

2 .Nguyên lý hoạt động của thiết bị phân cực sóng điện từ

Giả sử trên đường đi của sóng điện từ có đặt dẫn. một lưới chắn, được tạo nên từ các dây dẫn c. Các electron dao động sẽ phát ra sóng điện nhỏ, dài đặt song song và cách nhau từ với cùng tần số và biên độ nhưng ngược Nếu sóng điện từ va đập vào lưới chắn này, pha với sóng tới. nó sẽ bị phân cực như sau: nếu vector song d. Khi tổng hợp 2 sóng thì chúng sẽ tự triệt song với các dây dẫn thì sóng không thể tiêu nhau và trước lưới chắn sinh ra sóng truyền qua lưới chắn được. Nguyên nhân là: phản xạ. a. Vector của sóng tới sẽ tác dụng lên các Nếu sóng tới có vector E vuông góc với các êlectron của dây dẫn với một lực dây dẫn, electron trong dây dẫn hầu như b. Electron dưới tác dụng của lực sẽ bắt đầu không bị dao động theo hướng của , biên thực hiện dao động cưỡng bức dọc theo dây độ của dao động rất nhỏ, và sóng tới sẽ đi qua lưới chắn, và cũng không thay đổi cường độ của nó. 3. Kính phân cực Đối với ánh sáng có bước mặt cắt ngang. Như vậy, sóng ánh sáng có vector E hướng dọc theo phân tử của kính sóng , để tạo lưới chắn có khoảng cách giữa các dây dẫn là không phân cực, sẽ không đi qua được. Ngược lại, nếu vector vuông góc với các phân tử, hề đơn giản. Nhưng có thể lấy ví dụ là các sóng sẽ đi qua gần như hoàn toàn và không phân tử mêtan (CH4) bị kéo dài ra theo một thay đổi cường độ. Hướng này được gọi là hướng nào đó. Các electron có thể dịch trục cho qua PP, nó hướng vuông góc với chuyển dọc theo phân tử, giống như trong trục của các phân tử (xem hình dưới) các dây dẫn, nhưng không thể theo phương

Santen hân hạnh tài trợ

30

31

1. TIÊM OCRIPLASMIN NỘI NHÃN ĐIỀU TRỊ DÍNH THỂ KÍNH - HOÀNG ĐIỂM Ophthalmology 1/2015 Phân tích nhóm từ thử nghiệm ngẫu nhiên, bác sĩ Haller và cộng sự đánh giá hiệu quả tiêm ocriplasmin nội nhãn trong điều trị dính thể kính - hoàng điểm có triệu chứng (VMAs - Symptomatic vitreomacular adhesions), bao gồm những liên quan đến lỗ hoàng điểm. Tác giả thấy hiệu quả tốt điều trị lâu dài của ocriplasmin so với giả dược. Những nghiên cứu mù đôi có kiểm chứng với giả dược trong vòng 6 tháng trên 652 bệnh nhân, 464 BN được tiêm một lần ocriplasmin (125 mcg). Đánh giá hiệu quả ở bệnh nhân bị VMA ở ngày thứ 2: lỗ hoàng

2.

điểm lành sau 6 tháng và cải thiện thị lực chỉnh kính tối đa (BCVA) sau 6 tháng. Kết quả ghi nhận những bệnh nhân càng thể thì tách VMA ở ngày thứ 28 càng dễ, cũng như mắt không có màng trước võng mạc, mắt bị lỗ hoàng điểm toàn chiều dày, mắt của thuỷ tinh thể, mắt có đường kính VMA dưới 1500 mcm. Những mắt bị lỗ hoàng điểm có chiều rộng dưới 250mcm dễ lành, không cần phẫu thuật. Cải thiện thị lực cũng tốt hơn ở BN trẻ và có thị lực lúc đầu thấp.

VIÊM GIÁC MẠC LIÊN QUAN KÍNH TIẾP XÚC CỨNG CHỮATẬT KHÚC XẠ ORTHO-K AJO 12/2014

Bs. Chan phân tích những trường hợp viêm giác mạc nhiễm khuẩn do kính ortho-K ở Hồng Kông từ năm 2003-2013 nhận thấy VGM vẫn tiếp tục là vấn đề nghiêm trọng. Đặc biệt là ở những vùng có tần suất cận thị cao. Nghiên cứu hồi cứu gồm 23 mắt ở 23 BN (16 nữ, 7 nam; tuổi trung bình 15). Tất cả bệnh nhân đều sử dụng kính ortho-K suốt đêm trung bình 2.7 năm trước khi khởi phát nhiễm khuẩn. Triệu chứng lâm sàng bao gồm: thâm nhiễm giác mạc (14 mắt) và viêm

quanh dây thần kinh giác mạc (12 mắt). có 15 mắt nạo giác mạc cấy khuẩn dương tính. Khuẩn phổ biến là Pseudomonas aeruginosa (6 mắt), Staphylococcus men coagulase (-) (5 mắt), Acanthamoeba (3 mắt). 5 trường hợp có cả P.aeruginosa và Acanthamoeba phân lập từ kính tiếm xúc hoặc dịch rửa kính. Thời gian trung bình từ lúc khởi phát đến lúc lui bệnh là 31.9 ngày. Tất cả BN đều đáp ứng điều trị và không cần can thiệt phẫu thuật cấp cứu nào.

3. GLÔCÔM ÁC TÍNH SAU PHẪU THUẬT ĐỤC THUỶ TINH THỂ. Santen hân hạnh tài trợ

31

32

Journal of Cataract & Refractive surgery 20/9/2014 Bác sĩ Varma và cộng sự đã công bố Độ tuổi trung bình là 67.5 +/- 13.7 (từ 44-86 những dữ liệu nhóm bệnh nhân bị glôcôm ác tuổi) tính sau phẫu thuật đục thuỷ tinh thể đặt IOL Glôcôm ác tính thường xảy ra 6 tuần trong bao. Tác giả nhận thấy trong hầu hết sau mổ. Thường là những bệnh nhân bị viễn các trường hợp, glôcôm ác tính xảy ra ở BN thị, tiền phòng nông ở trung tâm và vùng rìa, nữ bị viễn thị và không đáp ứng với điều trị tăng nhãn áp với góc hẹp/đóng góc. nội khoa. Các trường hợp này đều được điều trị Nghiên cứu hồi cứu loạt ca gồm 18 BN thành công bằng tiếp cận từng bước. Chỉ 2 (20 mắt) được chẩn đoán glôcôm ác tính xảy trong số 20 mắt đáp ứng với điều trị nội ra sau phẫu thuật phaco IOL trong bao. Tất khoa; số còn lại phải liệt điều tiết, laser cắt cả BN đều là nữ, và hầu hết đều bị viễn thị mống mắt-dây Zin - màng hyaloid, tái tạo trước phẫu thuật. Những người này thường tiền phòng đẩy IOL ra sau hoặc cắt pha lê có trục nhãn cầu ngắn và tiền phòng nông. thể.

4. KẾT QUẢ PHẪU THUẬT CỦA FEMTOSECOND LASER THỜI GIAN PHẪU THUẬT LÂU HƠN SO VỚI PHƯƠNG PHÁP PHACO CỔ ĐIỂN. Journal of Cataract & Refractive surgery 10/9/2014 Có phải femtosecond laser kéo dài thời gian phẫu thuật đục thuỷ tinh thể hơn là phaco cổ điển? Theo như hồi cứu của bs Lubahhn và cộng sự ở trung tâm nghiên cứu thì câu trả lời là ĐÚNG. Những nhà nghiên cứu đánh giá dữ kiện từ 3 phẫu thuật viên sử đụng femtosecond laser trong phòng mổ trong 6 tháng. Cả 2 phương pháp phẫu thuật đục thể thuỷ tinh truyền thống và sử dụng femtosecond hỗ trợ được sử dụng. Thời gian mổ được tính từ lúc BN vào phòng mổ đến khi rời phòng.

Santen hân hạnh tài trợ

Qua 6 tháng, những phẫu thuật viên đã thực hiện 420 trường hợp đục thể thuỷ tinh; trong đó có 162 trường hợp (chiếm 38.6%) sử dụng femtosecond laser. Và thấy thời gian lâu hơn là 11.1 đến 12.1 phút so với phẫu thuật truyền thống. Và nếu chỉ so sánh những ca mổ đơn giản thì, trường hợp có laser hỗ trợ vẫn lâu hơn 11.6-13.4 phút. Thời gian tăng thêm bao gồm những công đoạn chuẩn bị như: đưa BN vào giường cố định, đánh dấu rìa để sửa chữa loạn thị, nhập dữ liệu máy tính, và thao tác trên BN.

32

33

Đề tài thuyết trình 1. Kỹ thuật liên kết chéo sợi collagen phối hợp với LASIK Trong buổi thuyết trình về phẫu thuật khúc xạ kết hợp với liên kết chéo sợi collagen; câu hỏi được đặt ra là liên kết chéo đã giữ vai trò gì? Những chi tiết của kỷ thuật những dữ kiện trong kết cục và những lỗ hỏng trong sự hiểu biết đã được đề ra. Bác sĩ Marguerite Mc Donald trong buổi hội thảo đã đặt câu hỏi liệu kỷ thuật liên kết chéo sợi collagen có nên được dùng ở mọi bệnh nhân đã được mổ khúc xạ bằng laser. Bác sĩ John Kanellopoulos ở Hy Lạp bắt đầu cuộc hội thảo đã nói kỷ thuật liên kết chéo để phòng ngừa sự tái cận trong LASIK. Với kỷ thuật LASIK sau khi laser thì vạt LASIK sẽ gấp lại và được che bởi 1 tấm (Wexel Sponge). Sau đó cho nhỏ 1 giọt viber rapid chứa 10% riboflavin được pha trong nước muối đẳng trương và được trải đều cẩn thận trên mặt nhu mô. Bác sĩ Mc Donald để ý đến sự kiện là bác sĩ Kanellopoulo đã rất cẩn thận không để riboflavin thấm vào vạt LASIK. Theo bác sĩ Mc Donald thì điều này rất quan trọng để phẫu thuật thành công. Việc thấm riboflavin tiếp tục trong 60 giây sau khi vạt đã được đặt lại và riboflavin dư đọng lại đã được rửa sạch. Sau đó bác sĩ Mc Donald đã mô tả những nghiên cứu lâm sàng sâu hơn đã được thực hiện bởi bác sĩ Kanellopoulos Trong 1 nghiên cứu của bác sĩ Kanellopoulos và đồng nghiệp thực hiện 140 mắt bệnh nhân bị cận thị được mổ LASIK. Trong đó 60 mắt được mổ LASIK kết hợp với liên kết chéo và 75 mắt được mổ bình thường. Tác giả thấy ở giác mạc trong nhóm Santen hân hạnh tài trợ

Bác sĩ Marguerite Mc Donald đã nói chi tiết kỹ thuật liên kết chéo collagen ở LASIK

liên kết chéo thì hoàn toàn ổn định và cứng trong khi đó nhóm mổ LASIK bình thường thì bị cận thị tái phát trong 24 tháng. Bác sĩ Kanellopoulos cũng để ý đến hiệu quả gây viễn thị rất thường thấy và sự ổn định về sinh cơ học. Sau đó tác giả nghiên cứu về độ dày của biểu mô đã thay đổi khác nhau và thấy sự quá sản biểu mô ít hơn ở nhóm mổ LASIK bình thường, 1 tác động đã tăng thêm khi sửa chữa ở độ khúc xạ cao hơn. Với độ khúc xạ được sửa chữa cao nhất thì liên kết chéo giới hạn độ dày biểu mô giác mạc đạt được là 3.65 mm so với LASIK đơn độc thì chiều dày biểu mô giác mạc đạt được là 9.8 mm. Theo bác sĩ Mc Donald thì những dữ kiện của Kanellopoulos cho biết độ tái cận ở cận thị cao có thể phản ánh về tính chất sinh cơ học của giác mạc đã thay đổi. Những dữ kiện của bác sĩ Kanellopoulos cũng chứng tỏ 33

34

sự kết hợp liên kết chéo với LASIK an toàn và hiệu quả khi mổ cận thị hay viễn thị cao độ. Tác giả kết luận liên kết chéo hình như đã có 1 vai trò ở bệnh nhân mổ LASIK. Tuy nhiên cũng có 1 vài ý kiến nghịch về sự phối hợp này như phù giác mạc sau khi liên kết chéo; thấm nhập vô khuẩn; haze ở giác mạc lâu dài; thủng giác mạc. Tuy nhiên bác sĩ Mc Donald nhận thấy những biến chứng này không bao giờ có ở lớp biểu mô ngoài kỷ thuật. Để phụ thêm với việc mổ LASIK ở độ cận và viễn thị cao bác sĩ Lim Li ở Singapore cho biết thêm chiều dày của lớp nhu mô đến giới hạn và bệnh sử gia đình bị giãn củng mạc là những chỉ định để kết hợp thêm với liên kết chéo. Tác giả cho rằng lợi điểm của phối hợp liên kết chéo với LASIK là làm cho giác mạc cứng hơn do đó làm tăng sự ổn định về kết cục thị lực và sự sửa chữa về độ khúc xạ được chính xác, từ đó giảm tỷ lệ phải tái mổ. Tác giả cũng cho biết kết quả ở Châu Á khi mổ LASIK phối hợp với liên kết chéo ở 44 mắt (tức 22 bệnh nhân) ở trung tâm Mắt quốc gia Singapore. Những bệnh nhân này có độ cận thị từ -7 đến -13.5 Diop thì 100% bệnh nhân có tỷ lệ 6/12 và 95% bệnh nhân đạt mục tiêu trong khoảng 1 Diop. So với bệnh nhân chỉ mổ LASIK đơn độc ở những bệnh nhân từ -5 đến -10 Diop thì 57.1% đạt tỷ lệ 6/12 và 97.8% bệnh nhân đạt mục tiêu trong khoảng 1 Diop. Không có 1 phản ứng phụ nào được thấy ở những bệnh nhân này khi theo dõi trong 3.5 tháng. Bác sĩ Stephen D. Klyce ở Hoa Kỳ đã nhận định mổ kết hợp liên kết chéo với LASIK đã chứng tỏ an toàn và hữu hiệu thì sự ổn định của giác mạc ở những bệnh nhân cận thị và viễn thị cao quả thật là 1 tin rất mừng. Tuy nhiên tác giả cũng ghi nhận thêm là lổ hổng quan trọng về sự hiểu biết của chúng ta về kỹ thuật này: “ 1 tin xấu là chúng Santen hân hạnh tài trợ

ta không biết liên kết chéo đã tác động như thế nào?” Vấn đề bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết về giác mạc; Thông thường chúng ta nghĩ rằng 1 giác mạc khỏe mạnh giữ được hình thái qua sự liên kết chéo của các sợi collagen làm mô giác mạc cứng và ngược lại khi những liên kết này bị yếu thì gây bệnh lý giác mạc như trường hợp chóp giác mạc. Những giả định này cũng căn cứ trên những suy nghĩ cổ điển về sinh cơ học của giác mạc nhưng sự kiện này đã không được hỗ trợ bởi các dữ kiện nghiên cứu sau này. Chẳng hạn 1 giả định cho rằng giác mạc được cấu tạo bởi chất liệu thẳng và không thẳng với những đặc tính đàn hồi, nhầy đàn hồi (vicoelastic). Nhưng theo bác sĩ Klyce thì giác mạc sự thật không có đàn hồi và mô đàn hồi giác mạc đã không bị giãn qua những biến đổi của nhãn áp sinh lý và những tương tác cố gắng để đo, được coi là sự giãn của giác mạc thật ra không bị giãn. Một giả định thứ 2 về sinh cơ học của giác mạc, giác mạc được nghĩ là có 1 chất nền có độ nhầy thấp. Tuy nhiên ORA cho thấy giác mạc có độ trệ hậu điều này sẽ không xảy ra nếu giác mạc có chất nền có độ nhớt thấp. Giả định thứ 3 có những cầu nối proteoglycan ở giữa các mô sợi của giác mạc. Nhưng điều này đã không thấy khi soi trên kính hiển vi điện tử. Theo bác sĩ Klyce những cầu nối này là những hình ảnh không thật đó là cô động của chất nền của giác mạc khi mô bị khô chứ không phải là những cầu nối. Giả định cuối cùng là giác mạc gồm vi cơ cấu (tấm phiến) hay có những điều gì khác. Theo như giả định này thì liên kết chéo thực ra đã làm gì đó cho chất nền để làm giảm áp suất phù của giác mạc làm mỏng giác mạc. từ đó nghĩ liên kết chéo có 1 tác động nén chặt làm cho mô giác mạc được cứng. 34

35

Theo bác sĩ Klyce khoảng trống ở giữa các sợi có nhiều proteoglycan hay glycosaminogly ái nước đã bị biến đổi hóa tính bởi liên kết chéo của các sợi collagen. Điều quan trọng là các phẫu thuật viên phải biết đúng liên kết chéo tác động như thế nào để biết sử dụng đúng kỹ thuật cho tốt

nhất và điều khẳng định là liên kết chéo có tác động. Bác sĩ Klyce cũng nói thêm kinh nghiệm trên toàn thế giới đã hỗ trợ cho thay đổi hình thái của giác mạc sau kỹ thuật liên kết chéo được thực hiện.

2. Phẫu thuật cắt mặt giác mạc đã được đánh giá cao Tác giả Ellen Stodola phóng viên báo Eye World Vào ngày cuối cùng ở APAO buổi thảo tiếp xúc hậu phẫu là những quy định quan luận về phẫu thuật khúc xạ đã được tập trung trọng để điều hòa vết thường đề cao; kết cục vào đề tài phẫu thuật cắt mặt giác mạc ở thế về khúc xạ tốt và sự thỏa mãn của bệnh nhân. kỷ 21. Bác sĩ Jerry Tan, Singapore trình bày 2. Bác sĩ Zhous với đề tài so sánh đề tài PRK xuyên biểu mô; Bác sĩ Ants LASEK và SMILE cũng được chú ý. Tác giả Haavel trình bày đề tài kỹ thuật LASEK; đã bàn luận về nghiên cứu so sánh 2 kỹ thuật Bác sĩ Ioannis Pallikaris, Hy Lạp trình bày mục tiêu là chất lượng quang học khách quan đề tài EpiLASIK; Bác sĩ David Kang, Hàn và những thay đổi trong nhãn cầu sau khi Quốc trình bày đề tài PRK xuyên với PTK + femtosecond laser để lấy ra 1 miếng giác mạc PRK; Bác sĩ Xing Tao Zhou, Thượng Hải nhỏ (SMILE) sửa chữa độ cận thị nhẹ để biết trình bày đề tài so sánh LASEK với SMILE. độ hữu hiệu an toàn của mỗi phương pháp. Bác sĩ Meiyan Li, Thượng Hải trình bày đề Đây là 1 nghiên cứu tiền cứu so sánh không tài màng Bowman sau LASEK. ngẫu nhiên ở 44 mắt của 31 bệnh nhân (18 Trong số các đề tài thuyết này có 2 đề nam). Độ khúc xạ biểu hiện, chụp bản đồ tài được chủ ý hơn cả: giác mạc, những sai lệch sóng, độ nhạy cảm 1. Bác sĩ Haavel đã kết luận trong phần tương phản được đo trước phẫu thuật và 1, 3, trình bày kỹ thuật về LASEK cho rằng cắt 6 và 12 tháng sau mổ. mặt giác mạc bằng laser excimer là 1 phương Kết quả cho thấy SMILE và LASEK pháp tuyệt vời để sửa chữa cận thị. Tác giả điều an toàn và hiệu quả như nhau. Riêng cho biết xử lý bệnh nhân trước mổ cũng quan nhóm mổ SMILE bệnh nhân thấy dễ chịu trọng như kỹ thuật laser và chọn bệnh nhân. hơn nhóm mổ LASEK ở giai đoạn đầu sau Ngoài ra, phác đồ cho thuốc và xử lý kính mổ.

3. Sữa lão thị: IOL hiện đại cho thị lực tối đa Trong buổi hội thảo này các chuyên gia bàn về các phương cách dùng IOL từ đặt kính đơn tiêu cổ điển cho đến việc dùng kính IOL loạn thị và kính sửa lão thị thế hệ sau cùng. Những phác đồ mới đây cho từng bệnh nhân để lựa chọn bệnh cho đúng như hiểu rõ những yếu tố quan trọng để lựa chọn kính và những kỷ thuật thế hệ IOL kế tiếp để mổ đục

Santen hân hạnh tài trợ

thủy tinh thể được thành công. Với việc mổ đục thủy tinh thể ngày càng nhiều, các bước đầu tiên là cần phải hiểu rõ các loại kính và chiến lược sử dụng kính để đi đến thành công. Hiện nay có rất nhiều loại kính hiện đại và xác định những chiến lược chính yếu trước mổ, trong lúc mổ và sau khi mổ giúp cho bệnh nhân được thoải mái.

35

36

1. Bác sĩ Han Bor Fam Singapore đã nói về kỷ thuật sử dụng IOL lão thị ở thế hệ sắp tới. Tác giả đã nói qua về chức năng của kính đa tiêu, so sánh những tiến bộ về phạm vi thấy rõ của kính và từ đó đề cao những loại kính mới này để chữa lão thị. Những kính này sẽ được sản xuất trong 1 tương lai gần, tác giả cũng bàn về sắc thái và những biến đổi về kết cục so với kỷ thuật thông thường. 2. Bác sĩ Oshika giáo sư đại học Tisukuba ở Tokyo, Nhật Bản đã bàn về việc sử dụng kính IOL loạn thị trước mổ, trong lúc mổ và sau mổ để đạt kết quả tốt nhất. Trong buổi trình chiếu video tác giả nhấn mạnh việc đặt kính cho đúng, giữ kính được cố định để bảo đảm cho kết cục tối đa cùng với việc xử lý chứng loạn thị cho thích hợp. 3. Bác sĩ Cheng giáo sư đại học Sun Yet-Sen Trung Quốc bàn về những chất liệu của IOL mẫu mã và tính quang học của kính. 3 thành phần này giữ vai trò rất quan trọng cho kết cục chất lượng của thị lực. Tác giả cũng nhấn mạnh về việc nên chọn loại kính nào như đơn tiêu, loạn thị, đa tiêu và những thành phần khác của kính.

4. Kỷ thuật mới mổ đục thủy tinh thể cho kết quả về thị lực cao nhất Thuyết trình về thế hệ kế tiếp mổ đục thủy tinh thể; của femtosecond laser, xử lý hệ thống nước ở phaco tiên tiến và thế hệ kế tiếp về việc dùng IOL lão thị. Với dân số trên thế giới những người cao tuổi ngày càng tăng, bệnh nhân bị đục thủy tinh thể càng nhiều thì việc mổ đục thủy tinh thể cũng càng nhiều. Bệnh nhân đồi hỏi về kết cục thị lực ngày càng cao. Những kỷ thuật mới và công nghệ mới giúp cho các phẫu thuật viên thỏa mãn được những kỳ vọng ở những bệnh nhân này. Femtosecond laser phụ giúp cho mổ đục thủy tinh thể càng ngày càng được chấp nhận và những nghiên cứu mới đã cho thấy về những lợi điểm lâm Santen hân hạnh tài trợ

sàng của kỷ thuật. Ngoài ra máy phaco cũng được cải thiện để giảm năng lượng siêu âm trong lúc mổ giúp việc tái tạo thị lực được nhanh hơn. Một yếu tố quan trọng kháclà việc chọn đúng bệnh nhân đặc biệt khi dùng những IOL hiện đại. Rất nhiều công nghệ mới này sẽ trở thành hiện thực và để xác định làm thế nào xứ lý được những công nghệ này để đạt được thành công trong thực tế. Đó là những điểm chính trong buổi hội thảo này. 1. Bác sĩ Sachdev, 1 chuyên gia về lĩnh vực phẫu thuật đục thủy tinh thể, giác mạc và phẫu thuật khúc xạ quốc nội cũng như quốc ngoại, đã bàn luận về những lợi điểm lâm sàng của femtosecond laser phụ giúp mổ đục thủy tinh thể đặc biệt là sự chính xác và tiên đoán trước thị lực. Việc xé bao làm đường rạch giác mạc hình cung và chẻ nhân khi dùng femtosecond laser (FSL) là những đề mục chính trong buổi hội thảo.

36

37

2. Bác sĩ Tang giám đốc bệnh viện Tanjin, Trung Quốc đã bàn về việc xử lý dịch khi mổ đục thủy tinh thể. Với sự tiến bộ của máy phaco được thiết kế đường bơm kép với sự trợ giúp của FSL đã làm giảm năng lượng siêu âm vào mắt, gây lợi điểm chính là mổ đục thủy tinh thể được hữu hiệu và an toàn.

5. Ghép giác mạc Ghép giác mạc phiến sâu phía trước (DALK) và ghép xuyên thủng (PKD) Trong buổi hội thảo, các thuyết trình viên chú ý về kết cục dài hạn của ghép xuyên thủng và ghép giác mạc phiến sâu phía trước để trị những hỗn loạn ở mặt nhãn cầu và thủng giác mạc. Ngoài ra, cũng bàn về việc dùng chất nhầy để tách DALK cũng như dùng FSL phụ giúp cho DALK. Bác sĩ Charles Mc. Ghee ở New Zealand bắt đầu nói về ghép giác mạc xuyên. Tác giả nói về lịch sử của ghép giác mạc từ hơn 100 năm nay, từ 1945 đến năm 2000 là giai đoạn chính của ghép giác mạc xuyên thủng rồi sau đó là ghép giác mạc phiến sâu phía trước (DALK). Sau đó là ghép giác mạc nội mô với giải Deseemet (DSEK) và ghép giác mạc nội mô màng Deseemet (DMEK). Ghép giác mạc xuyên thủng đã thực hiện trên 100 năm kết quả rất tốt. Ở những mắt có nguy cơ thấp thì miếng ghép tồn tại trên 10 năm. Tuy nhiên, tác giả cũng nói về những giới hạn của ghép giác mạc xuyên thủng gây những biến chứng như: biến chứng do chỉ khâu; bị loạn thị hay bất đồng thị; bị thải hồi

Santen hân hạnh tài trợ

3. Bác sĩ Cheng giáo sư đại học Sun Yet-Sen Trung Quốc trình bày về thế hệ của kỷ thuật IOL đa tiêu kế tiếp và những bửu bối đi đến thành công. Tác giả tập trung vào những bước cơ bản trong việc sử dụng IOL chữa lão thị. Những yếu tố để đi đến thành công là: chọn lựa bệnh nhân cho đúng, đo sinh học ở mắt, kỷ thuật mổ và xử lý hậu phẫu.

miếng ghép cấp tính. Việc thải hồi miếng ghép vẫn là biến chứng sợ nhất. Bác sĩ Donald Tan ở Singapore nói về phương pháp DALK để điều trị đục giác mạc và những bệnh ở mặt nhãn cầu. Tác giả chú ý đến việc xử lý bệnh ở mặt nhãn cầu. Nếu 1 mắt vẫn còn tốt thì mắt bệnh được xem như là điều trị bảo tồn và chỉ cần làm phương pháp tự ghép 1 miếng ở vùng rìa từ mắt tốt. Nếu thị lực cả 2 mắt cùng xấu, thì tác giả chỉ mổ 1 mắt, ưu tiên cho mắt xấu. Tránh làm thương tổn ở vùng rìa còn lại hay những tế bào mầm. Điều này cần phải tránh việc thay thế mặt nhãn cầu hoặc tránh thay thế nội mô khi vẫn còn tốt. Phương pháp DALK không những làm tăng thị lực mà còn bảo tồn được màng Bowman bình thường. Màng này có khả năng ổn định mặt nhãn cầu và cải thiện được sự lành ở biểu mô. Để kết luận, bác sĩ Tan cho biết xử lý phẫu thuật những bệnh ở mặt nhãn cầu vẫn là những thách đố trong lâm sàng. Hãy dùng những phương pháp ít gây thương tổn nhất; càng ít càng tốt “less is more”. Dùng phương pháp DALK cho những trường hợp bị thiếu 1 phần tế bào gốc vì an toàn hơn là ghép xuyên thủng. 37

38

Bác sĩ Shigeto Shimmura, Tokyo, Nhật Bản nói về dùng chất nhầy để tách ở phương pháp DALK. Đầu tiên, tác giả nhấn mạnh về vấn đề học hỏi phương pháp này cũng như 1 vài kỷ thuật mổ được sử dụng ngày nay. Do dự của 1 vài bác sĩ để chấp nhận DALK là vấn đề học hỏi. Muốn thực hiện DALK thì có 1 vài kỷ thuật. Thông thường thoạt đầu là dùng tay để tách và sau đó là dùng kỷ thuật tạo bóng lớn “Anwar’s big buble”. Tuy nhiên, theo tác giả điểm chính là dùng chất nhầy để tách, mà tác giả vẫn thường dùng cũng như bác sĩ Gerit Melles ở Phần Lan vẫn làm. Tác giả nhấn mạnh về mục tiêu để thành công trong kỷ thuật này gồm: xác định được màng Deseemet để tách màng với nhu

Santen hân hạnh tài trợ

mô phía sau bằng cách chích chất nhầy trực tiếp vào mặt phẳng ở phía trên màng, loại bỏ nhu mô với những dụng cụ có cồn và tránh gây thủng bằng cách hạ áp xuất ở tiền phòng. Bài thuyết trình cuối cùng của bác sĩ Geoffrey Tabin ở Utah, Hoa Kỳ nói về dùng femtosecond laser trợ giúp cho DALK. Tác giả nói về kinh nghiệm khi dùng FSL ở những trường hợp này và những lợi điểm của nó. FSL đặc biệt đã giúp cho phẫu thuật viên tin tưởng cắt được sâu trong lúc bóc vạt. Ưu điểm của FSL: tạo cấu trúc chính xác của vết mổ, giảm loạn thị hậu phẫu, làm tăng độ bền của vết mổ, phụ giúp cho bóng lớn Enwar để đưa kỷ thuật DALK đến thành công. Tuy nhiên, FSL cũng có 1 vài bất lợi là giá cả và thời gian mổ lâu.

38

39

1. Sinh hoạt từ thiện: Mổ 100 ca đục thể thủy tinh với phaco tại Bệnh viện Hoàn Mỹ -Tp Cần Thơ: Vào ngày 25/07/2015 được sự yêu cầu của bệnh viện Hoàn Mỹ Cần Thơ, Đoàn phẫu thuật từ thiện Medic Optic đã xuống Cần Thơ mổ cho 100 bệnh nhân bị đục thủy tinh thể với phương pháp phaco được sự tài trợ của ông Huỳnh Tấn Sang việt kiều Mỹ.

Santen hân hạnh tài trợ

39

40

2. Sinh hoạt khoa học kỹ thuật Ngày 26/07/2015 công ty Santen đã tổ chức buổi Hội thảo chuyên đề về bệnh khô mắt và giới thiệu sản phẩm. Hai thuyết trình viên: 1. Giáo sư Louis Tong- chuyên gia giác mạc Viện Mắt quốc gia Singapore. Thuyết trình đề tài bệnh khô mắt do rối loạn chức năng Meibomian về vai trò của dung dịch nhỏ mắt bổ sung lipid trong điều trị khô mắt. 2. Bác sĩ Lipika Roy- Giám đốc Y khoa Santen Châu Á Thái Bình Dương giới thiệu thuốc Cationorm đây là 1 thế hệ mới của nước mắt nhân tạo. Một đột phá mới trong điều trị khô mắt với công nghệ novasorb. Trong giờ thảo luận bác sĩ Lipika Roy đã giải thích Cationorm là loại thuốc khác hẳn với các loại nước mắt nhân tạo trước đây vì đây là 1 loại nhủ tương dầu trong nước có điện tích dương nên tạo ra 1 lực hấp dẫn

mạnh với điện tích âm trên bề mặt nhãn cầu, từ đó đã kéo dài được thời gian lưu giữ của thuốc trên bề mặt nhãn cầu và giữ được độ ẩm bôi trơn trên bề mặt nhãn cầu mà không gây nhòe Thuốc cũng ổn định được phim nước mắt nhờ vào lớp lipid nhủ tương dầu trong nước có điện tích dương do đó giảm thiểu được sự bay hơi, bảo vệ áp xuất thẩm thấu. Thuốc không có chất bảo quản cho nên thuốc sử dụng được lâu dài không gây thương tổn cho lớp tế bào biểu mô của nhãn cầu. Trong giờ thảo luận các thuyết trình viên đã giải đáp tất cả các câu hỏi của các bác sĩ tham dự. Đây là 1 buổi hội thảo rất thú vị để các bác sĩ biết thêm loại thuốc mới giúp cho bệnh nhân giảm được các triệu chứng khi bị khô mắt.

Bác sĩ Nguyễn Cường Nam

Santen hân hạnh tài trợ

40

2015nhan khoa so 13-Bia 1-2.pdf

Ts.Bs Nguyễn Cường Nam. BAN BIÊN TẬP &. CỘNG TÁC VIÊN. Ts.Bs. Nguyễn Cường Nam. Ts. Bs. Dương Diệu. Bs Ngô Văn Phượng. ThSBs. Nguyễn Phú Thiện. Bs. Nguyễn Xuân Viên. Ts. Bs. Võ Hoàng Lan. KTV. Nguyễn Văn Toàn.... THƯ KÝ. Ds. Dương Kim Lộc. ĐD. Đoàn Minh Sang. KTV. Đỗ Nguyễn Kim Khôi.

1MB Sizes 22 Downloads 285 Views

Recommend Documents

KHOA HOA HK1 2014-2015.pdf
Whoops! There was a problem loading this page. Retrying... KHOA HOA HK1 2014-2015.pdf. KHOA HOA HK1 2014-2015.pdf. Open. Extract. Open with. Sign In.

KT TA SV Khoa 43.pdf
There was a problem previewing this document. Retrying... Download. Connect more apps... Try one of the apps below to open or edit this item. KT TA SV Khoa ...

KHOA TCNH-QTKD HK1 2014-2015.pdf
Retrying... Whoops! There was a problem loading this page. Retrying... KHOA TCNH-QTKD HK1 2014-2015.pdf. KHOA TCNH-QTKD HK1 2014-2015.pdf. Open.

Page 1 standard sooo 1soo - so soo so ... : :"...: 5,160 ... . ... : : Deluxe ...
P YAVAT E 998 Rinklongsamsaen Rd, (Rama 9 Rod) Bangkapi, Huaykwang, Bangkok 1031 O, tel: O 2625 65OO, Fax : O 2246 9253. S T A 998 ...

2015.04.19 Excellent Work… So-So Job.pdf
Page 1 of 1. The Other Joseph. The Art of Bouncing Back. “Excellent Work... So-So Job”. 4.19.15. “Now Joseph had been taken down to Egypt; and Potiphar, an. Egyptian officer of Pharaoh, the captain of the bodyguard, bought him. from the Ishmael

Wilson So - Semantic Scholar
Phone: E-mail: 2283 Hearst Ave, Apt 9. Berkeley, CA 94709. (415) 309-7714 ... Control Protocol for Ad-Hoc Wireless Networks ... Adaptive QoS over ad hoc.

Organizer : So -
participants in hope that they will choose Oil and Gas as their future career. Question and Answer session was conducted in every talk slot to let the students to.

Wilson So - Semantic Scholar
Ph.D. Computer Science. Thesis: Design of a Multi-Channel Medium Access. Control Protocol for Ad-Hoc Wireless Networks. Dec 2000 University of California, ...

So Purakh.pdf
taa. ||4||. Aquellos que te aman, Aquellos que te aman son sublimes, Oh sirviente Nanak, y están. agradecidos de Dios. qUM Awid purKu AprMpru krqw jI quDu j yvfu Avru n koeI ]. TuuN. Aad(ė) Purakh(u) AparaNpar(u) Kartaa Llii, Tud'(u) Lleva1 Avar(u)

NEW-PHỤ-LỤC-CÔNG-TRÌNH-KHOA-VẬT-LÝ.pdf
cells", Journal of Renewable and Sustainable Energy, 2016. A5. Bộ môn Vật Lý Lý Thuyết: 2 ... Page 3 of 13. NEW-PHỤ-LỤC-CÔNG-TRÌNH-KHOA-VẬT-LÝ.pdf.

[2017-05-04]thong-bao-hoi-thao-cap-khoa-t1-2018 ...
Page 3 of 3. Page 3 of 3. [2017-05-04]thong-bao-hoi-thao-cap-khoa-t1-2018-thong-bao-so-1.pdf. [2017-05-04]thong-bao-hoi-thao-cap-khoa-t1-2018-thong-bao-so-1.pdf. Open. Extract. Open with. Sign In. Main menu. Displaying [2017-05-04]thong-bao-hoi-thao-

so 8.pdf
[E] Record. (Ans):-C. 8. Plotter accuracy is measured in terms of repeatability and. [A] Vertical dimension. [B] Intelligence. [C] Resolution. [D] Pixels. [E] Buffer size.

so of nor.pdf
Son of nor telekinesisand terraforming in a dynamic desert world. Son of nor gameplay,. alpha part 1 youtube. Son of nor windows, mac, linux, vr gameindie db.

Lips So Close.pdf
Retrying... Download. Connect more apps... Try one of the apps below to open or edit this item. Lips So Close.pdf. Lips So Close.pdf. Open. Extract. Open with.

So you have no time?
May 12, 2015 - Mtime for yoga in our hectic lives?” You get up at 6 am. go to the oflice, work, come back home. take care of the kids, eat and, till whatever time ...

SBI SO English.pdf
unseen cloud of germ of a dreaded disease like anthrax, capable of inflicting a ... the panic stricken people may find that the medicare services run quickly out.

SBI SO English.pdf
Whoops! There was a problem loading this page. Retrying... Whoops! There was a problem loading this page. Retrying... SBI SO English.pdf. SBI SO English.pdf.

So Ambitious Scholarship.pdf
Page 2 of 8. Page 2 of 8. Page 3 of 8. So Ambitious Scholarship.pdf. So Ambitious Scholarship.pdf. Open. Extract. Open with. Sign In. Main menu. Displaying So Ambitious Scholarship.pdf. Page 1 of 8.

SO-DIMM-kspo.pdf
Application : NoteBook. Page 1 of 1. SO-DIMM-kspo.pdf. SO-DIMM-kspo.pdf. Open. Extract. Open with. Sign In. Main menu. Displaying SO-DIMM-kspo.pdf.

SO-CB 01 -
good properties from top builders at exclusive rates. • You can buy ... SmartOwner has partnered with Banks to offer a safe and efficient method for handling ...

so-do-HTL.pdf
+,,. %. ,. ' !"# !$# !%# !&#. ' !"# !$# !%# !&#. - ('. ) !"# * !$# !%# + !&# ,. - . # ! #'. # ! #. ' ' . # . # ! # - . !# !# / !# ' !# !# 0 !# !# (. () (/) () () !"# !# !# !# !# !$# !# !# !# !# !%# !# !# !# !# !&# !# !# !# !# Page 2 of 2. so-do-HTL.p

([PDF]) How to Talk So Kids Will Listen Listen So Kids ...
... the free Kindle App How to Talk So Kids Will Listen After reading the first two ... and Listen so Kids will Talk help parents develop communication And Listen ...